Thursday, December 19, 2013

CHÚC TẾT KHÔNG QUÂN / Long Võ PĐ110


NĂM MỚI sắp đến
Mến chúc Không Quân
Hãy nhớ mặc quần 
Đừng đi khom lưng
Đi đứng thẳng người 
Đừng để người cười
Không Quân yếu thế
Đối xử tử tế
Nhường dưới kính trên
Giữ gìn kỷ cương
Truyền thống hào hùng 
Của một Quân Chủng
Mang tiếng hào hoa
Ngày xưa đi bay
Đánh giặc như Thần
Bây giờ hết bay
Vẫn còn đánh chứ ?
Mục tiêu có sẵn
Cứ đánh dài dài
Đánh thật chính xác
Đánh cho thật mạnh
Đánh cho tả tơi
Thỉnh thoảng nghỉ ngơi
Rồi lại đánh tiếp
Đến khi đối thủ
Dơ tay đầu hàng
Thì hãy ngừng đánh
Đừng để bể mánh
Về mục ăn chơi
Đôi khi lắm lời
Của bà nội tướng
Có lúc sung sướng
Thì lại mau quên
Có lúc không bền 
BỊ chê đủ thứ
Viết vài giòng chữ
Gởi đến Không Quân
Sang năm Giáp Ngọ
Đi bộ thật nhanh
Tôt cho sức khỏe
Ăn uống lành mạnh
Cá nhiều thịt ít
Rau quả đều đều
Đẩy lùi bệnh tật
Sức khỏe là VÀNG
Bên cạnh có NÀNG
Đời đời HẠNH PHÚC

LV

Ai là tác giả ‘Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ’?

 
Ai là tác giả ‘Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ’?

Đỗ Dzũng

SHAKOPEE, Minnesota (NV) - Té ra, bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ” mà bấy lâu nay nhiều người tưởng là của cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, lại do một tác giả khác sáng tác.


Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ”. (Hình: Nguyễn Ngọc Trân cung cấp)
Đó là cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, hiện cư ngụ tại thành phố Shakopee, Minnesota. Sau khi nhật báo Người Việt đăng bài “Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: ‘Tôi chết đừng phủ cờ vàng?’” của tác giả Vũ Ánh, trong số báo ra ngày Thứ Bảy, 20 Tháng Tư, tòa soạn nhận được email của tác giả bài thơ cho biết về sự nhầm lẫn này.
Cũng như nhiều người khác, nhà báo Vũ Ánh tưởng Tướng Lê Quang Lưỡng là tác giả bài thơ, bởi vì “chúc thư của vị tướng và lời lẽ trong bài thơ giống nhau quá, và khắp nơi trên diễn đàn Internet ai cũng tưởng như vậy”.
Khi tiếp xúc với tác giả Nguyễn Ngọc Trân, ông cho biết sở dĩ ông sáng tác bài thơ này là vì muốn bảo vệ sự thiêng liêng của lá cờ VNCH.
Ông chia sẻ nguồn gốc sáng tác bài thơ này như sau: “Sở dĩ có bài thơ MTCCVXĐP là cũng vì đọc báo và xem tin tức thấy vào khoảng thời gian trên (lúc bài thơ sắp ra đời) thấy có nhiều vị cựu quân nhân lớn tuổi có lẽ họ không để lại di chúc hoặc dặn người nhà cho nên khi họ mất nhiều hội đoàn cựu chiến sĩ đã nghĩ ra cách phủ cờ cho họ do đó tôi không muốn làm mất sự thiêng liêng của lá cờ và tủi lòng những chiến hữu thực sự năm xuống hoặc sống lây lất bên nhà nên tôi mới cảm hứng làm bài thơ trên.”
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã lo chi?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ.
Ngày về quê càng lúc cứ xa mờ,
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng.
Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai?
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
“Bài thơ tôi chỉ làm trong một phút tình cờ khi thấy những hình ảnh phủ cờ tùm lum làm mất giá trị thiêng liêng của lá cờ,” ông cho biết tiếp qua email. “Tôi chỉ làm thơ tài tử thôi.”
Về chuyện Tướng Lưỡng và bài thơ, tác giả Ngọc Trân cho biết: “Tôi thật tình không biết Tướng Lê Quang Lưỡng đã mất năm 2005. Mãi sau này, Tháng Mười Một, 2011, tôi mới làm bài thơ này, tôi chỉ phổ biến trong nhóm Biệt Động Quân, forum Nguyễn Trãi 61-68 và đặc san Biển Khơi của hội Hải Quân OCS mà tôi có mấy người bạn phục vụ. Sau đó thì không biết vì lý do gì bài thơ trên lại được đăng trên net trong bài lời trăn trối của Tướng Lưỡng và đề tên Tướng Lưỡng là tác giả làm bạn tôi anh Trần Đức Tâm đã điện thoại cho tôi và hỏi tôi lúc đó tôi mới biết Tướng Lưỡng đã mất năm 2005.”
“Sau đó tôi có một người bạn có quen với gia đình Tướng Lưỡng và có xác nhận bài thơ đó không phải của Tướng Lưỡng làm, có thể vì một sự tình cờ giữa lời trăn trối của ông trùng hợp với bài thơ của tôi cho nên người viết đã để tên tác giả là ông,” cựu Thiếu Úy Biệt Động Quân Nguyễn Ngọc Trân viết tiếp trong email.
Theo tác giả cho biết, trước năm 1975, ông là học sinh trường trung học Nguyễn Trãi, Quận 4, Sài Gòn, niên khóa 61-68. Đầu năm 1970, ông được lệnh gọi nhập ngũ vào khóa 4/70 trường bộ binh Thủ Đức.
Cuối năm 1970 ông ra trường, về phục vụ tại Tiểu Đoàn 31 BĐQ thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ. Cuối năm 1972, ông được thuyên chuyển về phục vụ tại Tiểu Đoàn 36 BĐQ, cũng thuộc Liên Đoàn 3, sau đổi thành Liên Đoàn 31 BĐQ cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Tác giả bị đi “cải tạo” cho đến Tháng Sáu, 1979, vượt biên Tháng Bảy cùng năm, được tàu Ý vớt, và đến Tháng Tám, 1980, định cư tại Minnesota cho đến bây giờ.
Với tinh thần “đừng” qua bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ,” tác giả Ngọc Trân cảm hứng làm bài thơ sau đây, sau khi đọc bài “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển” của thi sĩ Du Tử Lê.
Bài thơ “Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển” của tác giả Ngọc Trân như sau:


Mai tôi chết hãy mang tôi hỏa táng.
Nắm tro tàn xin rải khắp quê hương,
Nơi hành quân xưa trên khắp núi rừng.
Để được gặp bạn bè tôi nằm đó,
Để thấy lại Kon Tum trong khói lửa
Hay Quảng Trị xưa anh dũng kiêu hùng
Rải tro tôi trên thị trấn Bình Long
Nơi đồi gió bao lính dù nằm xuống.
Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển
Sóng dập vùi thân xác biết về đâu?
Tro bụi tôi xin rải tận tuyến đầu.
Để nhìn lũ Cộng quân đang bán nước,
Thác Bản Giốc Ải Nam Quan ngày trước,
Bây giờ đây đã dâng hết cho Tàu
Tro tàn tôi xin rải tận Cà Mau.
Hay Phù Cát Bồng Sơn cùng Cửa Việt.
Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển,
Mang tro tôi về Bình Giả Phước Long,
Nhớ năm xưa cùng chiến hữu một lòng,
Vung thép súng giữ lời thề ngày trước.
Mai tôi chết xin được như mơ ước,
Để tro tàn tôi bay khắp không gian.
Quê hương ơi! Tôi xin được một lần,
Nắm tro bụi thấm vào lòng đất mẹ.


Đỗ Dzũng/Người Việt

Wednesday, December 4, 2013

Đồng Minh Can Trường - Harry F. Noyes III



Đồng Minh Can Trường - Harry F. Noyes III


alt

Tác giả là cựu chiến binh HK tại Việt Nam trong quân chủng Không Quân Hoa Kỳ. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên Cứu Á Châu từ trường Ðại Học Hawaii. Bài này (Heroic Allied ) được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993.

Họ (người lính VNCH) vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau.

Không lạ gì lính Mỹ khi qua viễn chinh ở vùng Ðông Nam Á – hầu hết đều là trai trẻ, học thức bình thường, được rập khuôn trong một xã hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những nền văn hóa khác – khó lòng cảm thông được với những người chiến binh miền Nam VN.

Ðiều đáng tiếc hơn nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi gia nhập vào hàng ngũ của những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ.

Chắc một số người sẽ cho rằng điều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều ‘cho’ họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn nhát, phải như vậy không?

Không, hoàn toàn sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ hùng hồn để đánh đổ cái huyền thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy.

Dĩ nhiên phải công nhận là quân lực Nam Việt không toàn hảo. Người chiến binh của họ phải chiến đấu với những kẻ lãnh đạo tồi, những quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng hoảng, những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Ðông Nam Á cũng không hơn gì đâu.

Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên phía Mỹ. Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ?

Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Ðộc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence) , dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18 có nhiều điểm thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự; quân Anh không quá ngoan cố như quân BV; và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam.

Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những phẩm chất để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.

Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cãi. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm, sự can trường và lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Ðông Nam Á?

Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy? Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là ‘Không!’

Chứng cớ quá rõ ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 coi như sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoãn bớt việc thu nhận thêm tân binh.

Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẩu chuyện một tiêu đội lính NV trong vùng được cử công tác thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường.

Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát.

Ðể minh chứng hơn, hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược).
Thế mà một đơn vị NV tầm cỡ một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải lui binh vì Không Quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu.

Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên người Úc quay tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng viên HK, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ NV. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và nghe nói lại rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính
là lính Mỹ bao giờ cũng ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải kinh sợ nếu quân NV không là những chiến binh nguy hiểm.

Tuy vậy, chứng cớ quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của quân nhân miền Nam đến từ hai sự kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn thường hay bị lãng quên hoặc che giấu để che đậy sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.

Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước khi lực lượng chính của Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm chừng 5 năm sau khi quân Mỹ rút ra. Trong khoảng đó phải có ai đó đang chiến đấu mà kẻ đó là người miền Nam chứ còn ai khác hơn.

Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tổn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến đấu thì sao họ lại chết nhiều như vậy.

Vậy thì do đâu mà NV phải chịu mang tai tiếng xấu?

Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng pháo binh HK rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành, các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn.

Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực HK là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong.

Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không.

Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.”

Một nghiên cứu qua loa trong quân sử cũng xác minh được điều này.
Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động
hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.

Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị bộ binh HK thời Ðệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Ðơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và nhanh chóng tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vỡ lẽ ra là đa số bọn chúng không có võ khí.

Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội miền Nam.

Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước lớn của người Mỹ.

Tôi xin tự minh chứng về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến Nam VN vào Tháng Sáu năm 1969, lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày tỏ thái độ ngu dốt và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng như quân đội quốc gia này.

Các binh sĩ Mỹ trắng cũng như đen, luôn cả những người trong các dịch vụ thuộc dân sự như truyền thông báo chí thẩy đều như nhau.
Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc VN kinh khiếp thay lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn.

Một viên đại úy Mỹ tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về ngành điện ảnh từ một trường có tiếng tăm (coi như họ được đào tạo để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường). Có lần anh ta sau công tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi dân Thái.

“Dân Thái người ta họ cho con đi học đàng hoàng,” anh ta nói, “khác với tụi nhỏ con của người Việt ở đây.” Khi tôi chỉ cho anh ta thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một trường học thì anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của mình. Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến trường mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm phim này lại không.

Chua chát thay, dân VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã nâng trình độ người đi học từ 20 lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các giáo viên vẫn thường xuyên bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên làm phim này gán cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp.

Vì phải viễn chinh nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này đã tự hun đúc cho mình một lòng thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều quan trọng đối với hắn là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học dành cho con cái họ; và chính cảm xúc đó làm mù đi thị giác của hắn.

Hãy nghĩ tưởng đến cảm tưởng của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi phải trực diện với nền văn hóa xa lạ trong một môi trường đầy căng thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy về thái độ kém cỏi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nỗ lực qua loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của
cuộc chiến.

Tuy vậy, đó không phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh giả vờ cho là mình hiểu về những gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính quả cảm, sự hy sinh và lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và sự hy sinh không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như có con không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa phôi thai (embryology) .

Những gì người lính Mỹ làm ở VN không dạy cho họ chi hơn về nền văn hóa, xã hội, chính trị, vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng Việt; ngay cả có một vài đọc được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc sách vở viết về xứ sở Việt Nam bằng Anh ngữ.

Ngoại trừ các cố vấn, ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những người Việt, có chăng họ có chung đụng với những người làm thư ký, giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn.

Ðiều quan trọng hơn cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có bao giờ xét đến thái độ khác biệt hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi chiến trường ấy, quân Mỹ sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình họ đều đang bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính miền Nam thì khác, hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa hiểu rằng chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ mới ra khỏi được đời sống quân ngũ. Ðương nhiên người Việt ắt phải dùng một thước đo riêng để quyết định cái gì là quan trọng hơn để chiến đấu.

Giới nhà báo không khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật truyền hình thiên vị mà tôi đã được xem trong đó người phóng viên tố giác Không Quân NV mặc dù đã Việt Nam Hóa chiến tranh, đã không chịu bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy hiểm chống lại BV.

Nói cho đúng thì chính HK không chịu để cho NV bay ra miền Bắc (ngoại trừ một vài phi vụ trong thời gian mở màn của các cuộc giội bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc ném bom vì có thế HK mới có thể dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn thương thảo.

Bởi không muốn NV xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV những trang bị không thích hợp cho các phi vụ đánh phá miền Bắc. Nam Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí, máy bay tiếp tế xăng trên không, hoặc cả những thiết bị điện tử cấn thiết cho những phi vụ ấy. Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy.

Người phóng viên nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã chọn sự tảng lờ để thực thi hành động báng bổ người đồng minh của HK. Căn cứ vào những lời lẽ vu khống cùng giọng điệu om sòm, tôi đi tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn toàn do cố ý.

Một dẫn dụ khác về tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc đến trận ấy hẳn đều biết TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người trong số một ngàn người đó biết có một tiểu đoàn BÐQ NV cũng đã san sẻ sự cam khổ ấy thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn vị NV khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ đang bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng để tường thuật đến trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những chiến sĩ chiến đấu can trường kia trở nên những người hùng vô hình tại Khe Sanh.

Sự thiên vị này, lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ rệt khi tường thuật về cuộc hành quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm 1972.

Thử xem lại một tài liệu truyền hình được đưa ra một thập niên trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những quân nhân HK này, đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc, kỳ thị dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người phóng viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn các tướng lãnh của họ.

Cuộc tấn công lên đất Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nổi tiếng cho thấy hình ảnh một người lính NV đang đeo trên càng một phi cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh này được liên tục tung ra trước công chúng Mỹ như là ‘chứng cớ cho thấy người miền Nam là đáng khinh tởm.

Quả thực đây là một thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những gì xảy ra bấy giờ đúng ra là như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối phương trong khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng phải đạp những két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao
5,000 bộ trở lên chỉ với hy vọng quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ này quả tình là không dám xuống thấp hơn.

Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Ðại Tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập San Quân Ðội) số ngày 19 Tháng Tư, 1971 như sau: “Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi một trung đoàn đối phương đông đến từ 2,500 đến 3,300 quân trong suốt ba ngày ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được của địch quân. Ðơn vị này còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637 quân địch.

Ðơn vị này chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu khi họ chạy đến được một đơn vị NV khác. Một số ít trong số 17 kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số còn lại, tất cả đều không.”

Giờ đây, chắc có người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không mà phi cơ lại bay cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc?

Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng ta sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã.

Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế Chiến Thứ Hai.

Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngũ của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này
leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình.

Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Ðiều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can trường và xả thân cứu nước của dân tộc này.

Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc vô cùng anh dũng.

Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Thẳng hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ trung thành của phía người Mỹ ắt Nam quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất.

Vấn đề được nêu ra không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ.

Sự thật là quân Mỹ nếu bị HK bỏ rơi như chính NV đã phải chịu, có lẽ họ cũng sẽ không khá chi hơn.

Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Nam Việt một cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu và đạn dược gửi sang cho miền Nam. Các phương tiện để vận chuyển cả trên không lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay thế. Quân lính NV đi hành quân không có bình điện để liên lạc vô tuyến, y tá trên chiến trường không có đủ y dược cụ căn bản. Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến đấu thắt lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày, khẩu phần này áp dụng cho cả súng trường lẫn đại bác.

Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng lưu động và hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây. Vậy thì ngoài sự thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo này cũng tác động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV.

Quân BV với trang bị đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những xe cơ giới chở quân hiện đại, họ đã đánh thẳng vào miền Nam suy sụp này bằng cuộc tấn công phủ đầu.

Phải, quân NV đã gác lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi như vứt vì có cơ phận đâu mà thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được, mang theo đến phút cuối cho tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội để bắn hay mang theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn). Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ?

Phải, quân NV đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía Bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế?

Ðã có lúc Nam VN hy vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngũ – làm thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bảo vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang khẩn thiết cần đến mình.

Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như Nam VN hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân y què quặt, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e là không thắng nổi.

Liệu NV có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV không kém với chi viện mà khối CS dành cho miền Bắc?

Câu trả lời là không biết được. Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến rập khuôn theo kiểu Afghanistan.

Cho dù NV có đại bại, sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng dù sao họ cũng đã giúp đỡ hết mình rồi. Ðằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp đỡ. Những kẻ nào muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và quân đội ấy là không phải lẽ.

Trước một tội ác tày trời bỏ mặc cho nhân dân miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra đi làm điều tốt kể ra đã quá muộn màng.
Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình đã sai lầm khi sỉ nhục lương tâm của người miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu. Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng tự do.

By Harry F. Noyes III

Thursday, November 28, 2013

TẠ ƠN NGƯỜI ÁO TRẬN - Như Thương

 
 TẠ ƠN NGƯỜI ÁO TRẬN
Tạ ơn áo trận phai mầu
Nắng mưa bùn đất dãi dầu tháng năm
Chiến hào lưng ngả chỗ nằm
Rừng khuya góc núi trăng rằm lửng lơ
Quặn lòng giang khúc ơ hờ
Khóm tre vạt trúc thẫn thờ đất quê
Chốn xưa dắt díu nhau về
Còn chi... đổ nát bốn bề tan hoang
Chắt chiu lẫm lúa bàng hoàng
Đốt thiêu rụi hết giặc tràn xóm thôn
Đạn bom lấp lại mồ chôn
Bé thơ ôm vú mẹ hồn phách đâu
Đại bàng đợi ở đầu cầu
Đạn xuyên áo trận đẫm màu máu anh
Gió bay rối vạt tóc xanh
Vợ đôi mắt ướt quấn vành khăn tang
Con anh khờ dại ngỡ ngàng
Nhìn ba áo trận hiên ngang phủ cờ
Khói hương truy điệu ảnh thờ
Hồn anh quanh quẩn tìm bờ núi sông



Như Thương

Monday, November 25, 2013

Southland Senior Olympic/ Anaheim / Giải Bóng Bàn / 11-23-2013

Chúc Mừng Kingbee Thiếu Tá Trần Ngọc Thạnh cựu Phi Công thuộc Phi Đoàn 219 QLVNCH

Đã được:
Huy Chương Vàng Bóng Bàn Đơn và cặp Đôi giải Thế Vận Hội Lão Tướng (70-75)
Huy Chương Bạc Bóng Bàn cặp Đôi Nam Lão Tướng (65-75)

Cuộc tranh giải được tổ chức tại thành phố Anaheim Tiểu Bang California Hoa Kỳ vào ngày 23 tháng 11 năm 2013

 
HKMH Midway 1975

Tấm hình trên chiếc trực thăng HU1H thuộc phi đoàn 219 . 
Phi hành đòan gồm cựu Th/tá Trần ngọc Thạnh , Th/tá Hùynh xuân Thu
cơ phi Đổng minh Sanh , hành khách gồm : Th/tá Huỳnh văn Phố vợ và 2 con , Th/tá Đinh thế Khúc vợ và 2 con , Th/si T V Khánh vợ và 5 con
Bà Th/tá Phạm văn Lương pđ 259 và 2 con , Tr/uy Nghiêu pđ 259 , bà Nguyển văn Thạch phi đoàn 817 , mẹ ,2 em và 3 con. Cọng thêm vợ
và 2 con của th/tá Thạnh vợ và 2 của th/tá Thu 

tất cả gồm 20 ngừơi lớn và 19 trẻ em trên một chuyến bay lịch sữ.



Sunday, November 24, 2013

CUỘC VƯỢT NGỤC ĐẪM MÁU TẠI TRẠI TÙ GIA TRUNG / Nguyễn Hoàng Sơn

 Một câu chuyện có thật rất xúc động và rất anh hùng.
Thành kính dâng lên nén hương lòng tưởng niệm và tri ân những anh hùng Quân Lực VNCH vượt ngục Cộng Sản.
  CHÚNG TÔI  VÔ CÙNG CẢM PHỤC  NHỮNG QUÂN DÂN CÁN  CHÍNH VNCH  VỊ QUỐC VONG THÂN.
  NGUYÊN ĐÌNH HOÀI VIỆT
( Một cựu tù vượt ngục tại nhà tù CS Miền Bác VN ) 
Nguyễn Hoàng Sơn.
Bạn thân..
Mấy ngày nay tôi đã đọc quyễn sách” Không Quân hằn nổi nhớ” của bạn gửi tặng. Trong quyển sách có 1 số bài viết về tù cải tạo của anh em KQ nói riêng và QLVNCH nói chung làm tôi liên tưởng đến cái chết của Nguyễn Hưng Quốc khoá 72G và không cầm đươc nước mắt khi nhớ đến Quốc. Chuyện đau lòng nầy, tôi đã giử kín suốt hơn 30 năm, chỉ kể cho vài người bạn thân… Ngày đại hội Liên Khóa 72,73 tại Cali năm 2003, tôi có đưa danh sách anh em đã chết cho MNT cất giử để làm tài liệu khi cần thiết.
Thật là đau lòng cũng như hoài niệm về Dỉ Vãng đã qua 30 năm mà Tôi cứ tưởng mới xảy ra hôm qua. Hôm nay Tôi gửi mail này đến với anh em để được làm Nhân Chứng sống trong câu chuyện những Anh Hùng thật Gan Dạ, thật Dũng Cãm, bất khuất trước mũi súng Cộng sản Dã Man Vô Lương tâm không có tình người, giết đồng loại như giết thú vật không hơn không kém ..

Ngày 19 tháng 1 năm 1979, sau 3 ngày 2 đêm từ thành Ông Năm trại Công Binh Hốc Môn. Một đoàn xe tải ( loại xe hàng chở rau cải hoặc chở heo ) chở 426 tù Cãi Tạo đến Trại Gia Trung vào lúc 5 giờ chiều. Với khí hậu lành lạnh của miền Cao Nguyên cũng làm cho mọi người hoang man lo sợ, từ trong xe anh em nhìn qua khe hở của tấm bạt phủ kín thấy toàn là những công an áo vàng trang bị súng AK ,B40.. đứng đầy đặc dưới sân dàn hàng ngang để chuẩn bị lùa đám cải tạo vào trại. Ngoài trời tuy lạnh nhiệt độ khoãng chừng 18 độ C mà người nào cũng cảm thấy mồ hôi ra ướt cả áo… Không biết chuyện gì sẽ xảy đến đây? Chúng nó để anh em ngồỉ trong xe trên 3 giờ đồng hồ, mọi người trên xe quá mệt mỏi, có người bắt đầu muốn xĩu vì quá lo sợ. Với không gian im lặng chưa từng thấy, bốn bề chỉ thấy rừng và rừng mà thôi. Mổi người theo đuổi 1 suy nghĩ riêng về số phận sắp xảy đến cho mình. Viễn ảnh người thân gia đình,cha mẹ, vợ con có lẽ từ giờ phút nầy sẽ vĩnh viển không bao giờ gặp lại nữa. Có những câu kinh Phật,Thiên chúa bắt đầu phát lên nho nhỏ của ai đó….. Việc gì đến rồi cũng phải đến, bọn công an ra lệnh mở bung cửa sau xe cam nhong, bên ngòai tiếng đạn lên nòng răn rắc. Chúng nó lùa bọn tù cải tạo vào bên trong hàng rào kẻm gai đi vào từng dãy nhà đã xây sẵn từ bao giờ. Mỗi nhà khoảng 50 mét vuông chứa 70 tù cải tạo ( các bạn tưỡng tượng với 50 mét vuông ấy cho 70 người tù ấy sẽ nằm ngủ ra sao ???). Bên ngoài chúng khóa cửa lại thât chắc chắn bởi những tên Trật Tự (tù hình sự). Trứơc tương lai đen tối mù mịt của những người tù đã phát sinh trong đầu “ Vượt ngục” không thể sống như thế nầy nửa.
Công an thành lập nhiều đội… từ đội 1 đến 24. Tất cả Thiếu Úy của mọi quân binh chũng đều được tập trung vào ĐỘI 11 là đội được trại chú ý nhiều nhất, cũng là đội ba gai nhất, chống đối nhiều nhất.. Trong đó có những người sau đây đã đi vào huyền thoại câu chuyện “” GIẾT CÁN BỘ VƯỢT NGỤC”” :
1. Nguyễn Hưng Quốc KQ72G,
2. Nguyễn Hòang Sơn KQ72B,
3. Thái Sỉ quan Không Lưu Pleiku (mất tích)
4. Nguyễn Mạnh Hùng Hải Quân ( nghe nói định cư tại Canada )
5. Giám Hải Quân,
6.Tiền Quốc Quyền Biệt Kich 81,
7.Trần văn Hòa Biệt Kích 81,
8. Khánh Trinh sát SD5BB ( anh Giám và Khánh tôi không nhớ họ và chử lót).
Thưa các bạn bây giờ tôi xin đi thẳng vào câu chuyện vượt ngục theo trí nhớ của tôi..
Vào lúc 4 giờ chiều ngày 12 tháng 4 năm 1979, Đội 11 được phân công lao động trên sườn đồi cách trại khỏang gần 1 cây số. Trước 2 ngày cũng lao động tại chổ nầy anh Tiền Quốc Quyền (BK81) có hỏi tôi trong giờ giải lao :
Quyền:
-ê Sơn mầy nhắm từ đây tới chân núi trước mặt là bao xa?
Sơn:
-Tôi là Không Quân làm sao mà tính chính xác được, Nhưng tôi cũng nói đại khái là khỏang hơn 10 cây số, nếu đi cả ngày cũng không tới. Ủa mà mầy dân biệt kích mà sao hỏi tao? ( Chính sự đối đáp nầy lọt vào tai người nào đó mà tôi phải chịu mọi hậu quả sau khi tóan người nầy giết cán bộ vượt ngục).
Trong khi đội trưởng đội 11 Lý Lai Bữu ra lệnh cho anh em thu dọn đồ nghề gồm có cuốc, xẻng, rựa gom lại 1 chổ có tóan khác vác về.. mọi ngày cũng như mọi ngày, công việc cũng như vậy thôi..Vừa lúc ấy Nguyễn Hưng Quốc đi lại gần tôi nói nhỏ:
-Niên trưởng cho Quốc mượn cái rựa.
Tôi cũng vô tình đưa cho Quốc (vì hôm nay tôi xữ dụng để chặt cây rừng). Quốc cười cười thật tươi nói với tôi:
- Xin lổi niên trưởng nha !!
Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì lệnh thu dọn mà sao Quốc lại mượn rựa để làm gì? Tôi đứng nhìn theo Quốc,thật không ngờ Quốc đã dùng cái rựa oan nghiệt ấy nhào người tới chém liên tục trên đầu tên cán bộ Quản giáo đến khi máu tuôn xối xả mà Quốc vẩn không ngừng tay, còn tên quản giáo vẫn ôm xiết cây AK47 đang dằng co với Quyền. Tất cả mọi người trong đội chứng kiến tại chổ mà không 1 ai dám lên tiếng vì sự việc xảy ra quá bất ngờ đối với anh em. Mọi người chưa kịp nghĩ phải ứng phó thế nào, thì nghe tiếng súng ở phía đội lò gạch đang làm việc dưới chân đồi bắn lên báo động. Trên trung tâm trại Gia Trung đang ở trên đồi phía trái cũng đồng loạt nổ súng về hướng đội 11 ( anh em cứ nghĩ ngày xưa ở quân trường mình đã từng bò hỏa lực như thế nào thì ở đây trong trường hợp nầy còn nguy hiểm gấp ngàn lần). Lúc nầy mọi người lo sợ cùng nằm rạp xuống và tìm nơi ẩn nấp tại chổ, khi tôi nhìn lại hướng của Quốc và Quyền thì thấy quản giáo nằm bất động, còn Quốc và Quyền đã biến mất……!!!!!!!!!…….??????
Nếu tôi không đưa rựa thì Quốc có hành động hay không??? Tôi đã ân hận về chuyện nầy suốt 30 năm.
Chừng 10 phút sau tôi nghe tiếng hò hét của CACS đang tấn công lên đồi. Họ vừa tiến lên , vừa bắn xối xả trên đầu anh em trong đội 11. Khi họ tiến được lên đội 11, họ đạp bừa bải lên anh em tù đang nằm tại chổ và dí súng vào đầu những ai muốn đứng dậy. Một tóan CACS tiếp tục truy đuổi những người vượt ngục nổ súng liên tục về hướng Quốc và Quyền, một tóan khác thì dìu tên quản giáo đi cứu cấp ( tên nầy may mắn chỉ bị thương, chưa phải đi thăm già hồ). Tất cả mọi người vẫn nằm yên tại chổ đến khi trời sắp tối thì bọn CACS mới kêu mọi người đứng dậy tập họp điểm danh. Tôi nghiệp anh đội trưởng Ly Lại Bửu già ( khỏang 40 tuổi người Hoa run lập cập điểm danh anh em, nói không ra lời và thiếu tất cả 7 người… Quốc, Quyền, Hùng, Giám, Hòa, Khánh và Thái.
Sau khi về trại chúng lùa anh em vào nhà giam, không cho ăn uống gì hết… Khỏang hơn 2 giờ sau, ngoài trời tối như mù, ai cũng lo sợ cho số phận của 7 anh em mình, thì bên ngòai có tiếng mở khóa phòng bởi trật tự viên và 1 công an tên Phòng kêu anh Ly Lai Bửu đi nhận diện xác người. Đi với anh Bửu còn có khỏang 6 người tù hình sự mang theo cuốc xẻng để đào mồ chôn anh em nào đó đã chết. Khỏang gần nửa đêm anh Bửu trở về trong tâm trạng thất thần, mặt anh Bửu xanh xám thảm hại chưa từng thấy trên gương mặt già khắc khổ của anh, không ai ngủ được, có người quá bi quan sợ ngày mai chúng đem ra bắn bỏ hết. Anh Bửu kể lại việc chôn anh Quốc và Quyền không có hòm, không có gì để quấn xác hai anh. Quyền bị bắn ngay trên trán và trên ngực chết tại chổ cách nơi giựt súng không bao xa.. Riêng Quốc cũng bị bắn nát ngực nhưng không bị trúng trên đầu nên không chết liền, chắc anh đã oằn oại đau đớn dử lắm cho nên trên mặt đầy đất, cát và miệng thì ngậm đầy đất. Năm người còn lại thì đã chạy biến vào trong rừng sâu. Anh Bửu nghe cán bộ nói chuyện với nhau là: Quyền và Quốc đã can đảm đúng lại dùng súng bắn cản đường công an để cho đồng đội chạy thóat cho nên mới chết gần nơi lao động cách đó không xa, nhưng rất tiếc vì công an trang bị đạn trong súng chỉ có 2 viên để dành bắn báo động khi có người vượt trại .
Sau một tuần không ra khỏi trại đi lao động, mọi người trong đội 11 đều phải làm tờ tường trình sự việc và phải tố giác những ai có liên quan đến tóan người vượt ngục. Hơn một tuần lể hơn 40 người sống trong lo sợ, đầu óc căng thẳng. không ai nói chuyện với ai, ngày nào cũng ngồi viết từng trang giấy nầy sang trang giấy khác dù nội dụng mọi người có khác nhau, nhưng cũng giống như những gì đã khai viết ngày hôm qua (biết viết gì đây?). Đây là sự hành hạ của cán bộ công an CS đang giết chết từng người qua từng bản kiểm thảo. Họ khủng bố tinh thần những con người còn lại một cách tàn nhẫn, nhìn lại những khuôn mặt anh em hiện diện không còn hình thù của con người nửa mà giống như những xác chết biết cử động mà thôi…
Ngày 21 tháng 4 năm 1979, buổi sáng lần đầu tiên tù nhân được kêu ra ngoài tập họp để đi lao động. Sau khi tòan trại viên hơn 700 người từ tù cãi tạo và tù hình sự đang ngồi ngòai sân chờ cán bộ trực trại đọc tên từng đội đi ra ngoài trại, nhưng buổi sáng hôm nay ngồi gần tiếng đồng hồ thì ban chỉ huy trại xuống với hơn mười tên cán bộ chỉ huy và một số vệ binh cầm súng AK47 bao quanh tòan trại. Trại trưởng là trung tá TUNG đứng trước mặt tù cải tạo cầm danh sách đọc tên những người tình nghi có liên quan đến tóan 7 người vượt ngục :
1. Nguyễn Hòang sơn,
2. Trần văn Hòa,
3. Nguyễn văn Quốc.
Tất cả 3 người nầy cùng đội 11 có liên quan mật thiết đến tóan 7 người “ Giết cán bộ vượt ngục”, tất cả được lệnh tống vào phòng biệt giam cách ly. Một tuần sau khi bị đánh đập tàn nhẩn, bị cùm 1 chân không cho ăn uống, bắt phải nhận tội là mình có tham gia vào chuyện vượt ngục, có lẻ cũng không khai thác được gì ở hai anh Hòa và Quốc… Hay vì lý do nào đó họ lại thả 2 anh Hòa và Quốc trở về trại. Còn tôi tiếp tục bị tra tấn dã man, mỗi ngày bị 2 trận đòn thù ( vì có người khai là tôi hướng dẩn cho Quyền đi tới chân núi).
Ngày 15 tháng 5 năm 1979, buổi tối khỏang 7 giờ, tôi nghe tiếng la hét ,tiếng cửa xích sắt mở ngòai phòng giam. Một tên cán bộ đút đầu vô cửa nói:
-Sơn ! bạn mầy đã về tới rồi, coi mầy còn chối cãi nửa không .
Thât sự lúc ấy tôi thật hoang mang, không biết ai bị bắt lại và bắt lại mấy người ? Vì trời tối như mực, nhìn ra thì không thấy rõ người nào…chỉ thấy rất nhiều công an đã nhào vô đánh tới tấp ai đó liên tục. Tôi chỉ nghe tiếng rên la cũa người bị đánh và tiếng cười nói thõa mãn của bọn công an đánh người bị nạn. Mãi đến 2 ngày sau, tôi mới biết được đó là Nguyễn Mạnh Hùng và Khánh. Khánh bị đạn bắn xuyên thẳng từ bụng ra sau lưng không được băng bó vết thương. Trong thời gian nầy có BS Hòang Huy Cơ (là em của BS Hòang cơ Bình ứng cử viên phó Tổng Thống thời Ông Ngô Đình Diệm???) thay băng tạm thời vì đã có giòi và mủ ra thật nhiều.. không 1 mũi kim tiêm thuốc, không 1 viên thuốc nào hết, nhưng tinh thần của Khánh rất là vững tâm và lạc quan, xem như không có chuyện gì.
Phòng biệt giam của tôi ở sát bên Khánh cho nên anh em đã tâm sự thật nhiều mỗi khi trời tối và nhờ vậy tôi biết và xin kể tiếp hành trình cũa 5 người sau khi chạy thóat ra bìa rừng…
Khánh kể lại: Trong kế họach Quốc và Quyền sẻ hành động ngày 12 tháng 4 nhưng ngày đó chỉ có 1 cán bộ quản giáo mà không có vệ binh đi theo ( thường thì có 2 vệ binh và 1 quản giáo đi theo đội lao động) không hiểu sao ngày nầy chỉ có 1 tên quản giáo? Nhiệm vụ của Quyền là cướp súng AK vì Quốc không biết xử dụng, phần Quốc là hạ gục tên quản giáo vì Quốc có Karate, còn tất cả anh em còn lại phải rút chạy về hướng núi trước mặt và hẹn gặp nhau ở ngã ba tam biên. Xin lưu ý các bạn điểm nầy, anh Thái KQ kiểm Báo ở Pleiku không có nằm trong tóan nầy như đã bàn bạc trước. Theo tôi và Khánh nghĩ là anh Thái tự động bỏ chạy khi thấy có biến động, cho nên trong tóan nầy không có mặt anh và cho đến nay Thái đã mất tích hòan tòan, không thấy bị bắt về và cho đến ngày hôm nay gần 30 năm không có ai biết được Thái còn sống hay đã chết trong rừng…..
Trở lại câu chuyện trên, sau khi Quốc và Quyền ở lại bắn yểm trợ cho anh em chạy vào rừng gồm có Khánh, Hòa, Giám, Hùng. Họ đã đi liên tục không có ngày và cũng không có ban đêm, chỉ biết nhắm về hướng Tây mà thôi. Cuối cùng họ cũng đã đến ngã ba biên giới. Vì lầm tưởng đã ra khỏi biên giới VN, họ tính chuyện nằm nghỉ xã hơi sau những ngày chạy liên tục, nhưng vì đói quá nên lẻn vào nhà dân trộm khoai mì đã bị du kích phát hiện, Giám và Hòa 1 lần nửa giựt súng du kích và bị bắn chết tại chổ, còn Khánh bỏ chạy nên bị bắn theo 1 loạt AK , may mắn chỉ có 1 viên trúng vào lưng bị bắt về với Hùng.
Trong thời gian biệt giam, 3 người Sơn, Khánh, Hùng vẩn tiếp tục bị đánh đập và bỏ đói, nhịn khát . Tôi bị biêt giam và cùm chân cho đến ngày thứ 53 thì được khiêng ra cho về trại với hình thù như 1 con quái vật ( nhà bếp đem cân tôi chỉ còn 29kg) và trong 53 ngày có 19 ngày ói ra máu tươi, có lẽ vì vậy họ thả tôi ra khỏi biệt giam?? Hai ngày sau Khánh đã chết không đươc nhắm mắt trong khi chân vẫn còn bị cùm khi phát hiện. Còn Hùng thì được trả về 1 tháng sau trong hòan cảnh thân xác không khác gì tôi.
Thưa các bạn, đã 30 năm qua rồi, tôi rất sợ khi nói chuyện nầy vì đau lòng cho những anh em đã nằm xuống mà tôi không giúp gì được cho họ. Cuối năm 1981 tôi được thả về, thì gia đình Tiền Quốc Quyền (người Hoa) có đến gặp tôi và cho biết đã bốc mộ của Quyền đem về chùa tại quận 10 Sàigòn , ngoài ra còn những anh em khác tôi không liên lạc được. Hôm nay không hiểu sao tôi lại nói lên tất cả những bí ẩn về cái chết của anh em trại tù Gia Trung, mà chỉ có tôi và Nguyễn Mạnh Hùng là nhân chứng sống. Nếu Nguyễn Mạnh Hùng ở đâu đó tình cờ đọc chuyện nầy, xin anh hãy giúp bổ túc những gì còn thiếu sót.
Hôm nay tôi viết bài nầy để thay thế nén hương lòng thấp lên cho những Anh Hùng tuổi trẻ của QLVNCH sống Hào Hùng , chết Vẽ Vang cho Tổ Quốc VN dù trong trại ngục tù cộng sản hay ngòai chiến trường..
Nguyễn Hoàng Sơn
72B KQVN, PD231, tù cải tạo K1, trại Gia trung 1975-1981
                                                    

SỐNG ANH DŨNG, CHẾT HIÊN NGANG

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây.

Xin mượn hai câu này của cụ Nguyễn Công Trứ để tặng hương hồn em tôi và các bạn đã bỏ mình trong cuộc vượt thoát đầy cam go và máu, tuy không thành công, nhưng tất cả đã viết lên một trang sử bi hùng cho những cuộc vượt thoát của tù cải tạo.


Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
(NGUYỄN DU)

Các bạn đã hơn hai tuần băng rừng vượt suối, vượt qua đỉnh Hàm Rồng (theo anh Vũ Mạnh Hùng) và để rồi gục ngã tại làng Bò của người dân tộc, cách trại tù gần 200 cây số, các bạn đã bị bắt, bị đánh đập, và rồi bị bắn chết, xác bị vùi trong đất nông làm phân bón cỏ cây.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi   
(NGUYỄN DU)



Và đây là lời kể của những người đi tìm di cốt sau 32 năm…

…..Hồi đó phát hiện 4 người họ nghĩ là Phun Rô nên rượt đuổi bắn chết 1 người, 3 người còn lại bị bắt , nhốt trong những cái chòi làm bằng lá và đất.(ngưng trích)…….

Ba người này là Hùng, Hòa và Khánh (theo Vũ Mạnh Hùng )

……Sau đó anh tôi (Hòa) lại thoát chạy ,bị rượt đuổi và bị băn chết bởi toán du kích cùng công an xã hồi đó .Thương cho anh tôi nằm xuống ở tuổi 25, tuổi xuân phơi phới tràn đầy sức sống!(ngưng trích)

Lúc này Khánh đã bị thương, Hùng đang bị thẩm vấn, Hòa bị phát hiện ngay khi tháo chạy với hai tay còn bị trói nên gây tiếng động (theo Vũ Mạnh Hùng)

……Không tìm được đúng hướng đã chạy tới ngay sau trụ sở ủy ban xã,cạnh đó lại là nhà của đồn trưởng công an biên giới,(ngưng trích)

…….Lời của một già làng đã nói: Tại nó sợ quá nên mới chạy chứ không chạy bọn tao đâu có bắn. (ngưng trích)

CUỘC TÌM KIẾM TƯỞNG CHỪNG VÔ VỌNG

Cuộc tìm kiếm em tôi nung nấu trong tôi ba mươi mấy năm qua, từ ngày gặp anh Cương trên đường phố Sàigòn đổi tên, khi cả tôi và anh ấy đang là phu xích lô, tim tôi quặn thắt mà nước mắt không dám trào ra, tôi nhận lời thông báo từ anh ấy, không kịp nói lời cám ơn, vội vàng từ giã, và rồi mất luôn liên lạc vì sau đó tôi lại vào tù lần thứ hai.

Ra tù, tôi lấy đại ngày tử là ngày rầm tháng bảy để xin má tôi thờ vọng Hòa, chờ ngày tôi tìm được ngày đích xác, ngày ấy đã có rồi nhưng má tôi cũng đã ra người thiên cổ, có ai nghĩ ra rằng cuộc tìm kiếm phải đợi 32 năm mới hoàn tất ???

Trại Gia Trung

Tôi tìm em trong vô vọng, tôi không hề nghĩ đến trại Gia Trung, vì là Hòa là một Ch/uý mới ra trường, chưa nặng ký lắm, tôi chỉ hỏi thăm những bạn tù Xuyên Mộc, Suối Máu, Phước Long vv... câu trả lời là không, tôi gần như tuyệt vọng cho đến một ngày, 11 tháng Bảy năm 2010, bạn tôi, Thịnh Rôbô, hối hả tìm tôi, báo tin về bài viết của anh Nguyễn Hoàng Sơn trên website Hội Quán Phi Dũng, được đăng lại trên trang web Bất Khuất.
(Xin có lời cám ơn rất chân thành đến Thịnh Rôbô, dù là bạn thân, nhưng hãy nhận lời cám ơn này của gia đình tôi), tôi đọc bài viết, đúng là câu chuyện về Hòa, để biết rõ hơn, tôi nhắn tin tìm anh Sơn trên website Cánh Thép

Tìm tác giả của bài viết 'Cuộc vượt ngục đẫm máu trại tù Gia Trung"
Thưa quí Niên trưởng Không Quân
Tôi tên là Thuận, anh ruột của Hòa 81 được nêu lên trong bài viết.
Thưa các anh, qua hơn 30 năm tôi cố gắng đi tìm những người bạn của Hòa, những ai biết được câu chuyện vượt ngục này để cố gắng xác định nơi Hòa nằm xuống và ngày tháng hầu gia đình lo cúng giỗ để anh linh Hòa siêu thoát, mọi sự tưởng như vô vọng, thật là may mắn tôi được đọc bài viết của anh Sơn, tôi cố gắng truy cập để tìm số điện thoại nhưng không có nên đành phải viết dài dòng như thế này, mục đích là muốn liên lạc trực tiếp người viết để hỏi thêm vài chi tiết, mong rằng có ai đó trong các anh quan tâm giúp đỡ và thông báo lời nhắn này, tôi rất cám ơn và mong muốn được hàn huyên cùng các anh.
Xin cám ơn
Thuận .
Lúc này không biết anh Sơn đang làm gì mà không chịu lên website Cánh Thép, theo tôi, đây là một trong những trang web thông minh với nhiều thông tin bổ ích, xin cám ơn các anh đã chuyển dùm tôi lời nhắn này.

Chờ hoài không được, lòng tôi nôn nóng, lời hứa tự trong tim làm tôi đau nhói, tôi quyết tâm tìm, và tôi gởi email cho người điều hành website Bất Khuất,

Các bạn thân mến
Tôi là Thuận, khóa 9B72, tình cờ đọc bài viết của anh Nguyễn Hoàng Sơn về chuyến vượt ngục đẫm máu ở trại tù Gia Trung, trong đó có em tôi là Hòa, Nguyễn văn Hòa, không phải  Trần văn Hòa, bao năm qua tôi cố tìm nơi nó nằm xuống nhưng chưa có cơ hội, nhân đọc bài viết này, tôi nghĩ rằng mình đang gặp may, mong anh Sơn khi đọc được thư này làm ơn gọi cho tôi ở số 510-663-9948 ngày hay đêm, tôi tìm xác em tôi, xin anh giúp tôi tìm xác đồng đội của mình.
Nhờ các bạn trong Diễn Đàn Bất Khuất thông báo cho anh Sơn dùm, cám ơn các bạn

Lần này thì tôi thành công, bạn batkhuat872 đã trả lời (xin chân thành cám ơn bạn batkhuat872) và giới thiệu qua anh Hùng, tự Hùng Nhô (372) tận bên Úc. Lời nhắn trở lại của anh Hùng trên website Cánh Thép đã có hiệu quả, hoan hô anh Hùng, anh Hiếu nhập cuộc và rồi anh Sơn đã lên tiếng, THAY MẶT GIA ĐÌNH XIN CÁM ƠN TẤT CẢ CÁC BẠN.

CUỘC TÌM KIẾM BẮT ĐẦU

Tuy thế, thời gian quá lâu, vật đổi sao dời, tôi phải tìm tới tâm linh, tôi điện thoại về VN tìm nhà ngoại cảm, bằng cách nhờ người quen, bằng điện thoại, nhưng sau khi kiểm chứng, tất cả đều không thể tin được, cuối cùng, tình cờ trên website PhiDũng, và kế đến là website RFA đăng tin về vụ hai nhà ngoại cảm Đà Nẵng tìm ra (???) hài cốt của Phi Đoàn Tinh Long 07, tôi như người sắp chìm vớ được phao, tôi email cho anh Trương nguyên Thuận, và qua anh, tôi làm quen với các nhà ngoại cảm, xin có lời cám ơn anh Trương nguyên Thuận.

Qua tìm hiểu, trại giam Gia Trung có 6 trại, nhưng nằm đâu thì không ai xác định được, những người bạn tù của tôi không ở trong cuộc cũng chỉ biết lờ mờ về tọa độ, anh Sơn cho hay là trại K1, nhưng K1 nằm đâu???

Câu hỏi thật khó trả lời cho tôi và các chị em tôi, những người tôi giao nhiệm vụ đi tìm, họ là những người dân bình thường, là nhà giáo, là nhà khoa học đã tốt nghiệp Đại Học, chưa hề đi lên cao nguyên huống chi là nói tới biên giới.

Thôi đành ra đi bằng niềm tin tuyệt đối vào tâm linh, cầu mong sự phò hộ của tổ tiên ông bà, cầu mong Hòa sống khôn thác thiêng đưa đường dẫn lối, cầu khấn và cầu khấn, lòng  tôi như lửa đốt trong những ngày hai gia đình chị em tôi và hai đứa cháu trên đường đi lên Mường Dan, Gia Lai , VN là ngày, Mỹ là đêm, bao nhiêu ngày đi tìm bên đó là bao nhiêu đêm tôi thức trắng, tôi hối hận, tôi ân hận, tôi tự dày vò tại sao tôi không tự mình đi mà lại đẩy chị em tôi vào vùng nguy hiểm, rủi có mệnh hệ gì thì tôi ăn nói làm sao đây. Nhất là hôm bị gài độ giữ lại bên ngoài trại Gia Trung, cứ nửa tiếng là tôi gọi về một lần, cho đến khi cả nhà lên xe đi thì CaLi trời vừa sáng, mệt mỏi thể xác nhưng lòng nhẹ nhàng, thân nhân mình đã ra khỏi vùng hiểm nguy, tôi có một ngày làm việc phấn chấn, lạy trời, tôi không bị ngủ gục khi lái xe.
Trước khi hai gia đình lên đường, tôi làm bài văn tế cho em và yêu cầu đọc trước di ảnh của Hòa, trước bàn thờ ông bà cha mẹ, lòng thầm mong Hòa linh thiêng mà nghe lời khấn nguyện của tôi.

Hòa, chú Hòa, em tôi

Chú, thân chiến sĩ vùi thây nơi gió cát,
Tôi, chí ươn hèn gởi xác, phận lưu vong,
Lời dặn dò của chú ngày xưa, tôi đã làm xong.
Nhưng còn chú, và tôi, mình chưa trọn nghĩa

Ôi nghĩa anh em, ôi tình đồng đội.
Viên đạn thù nào khiến chú nỡ xa tôi
Ai có ngờ đâu ngày ấy chia phôi
Và đó, lần cuối cùng tôi cầm tay chú

Cục đường chia đôi, tay mình nắm vội
Hạt muối se lòng nghe mặn chát đầu môi
Và chú đi, trong vận nước nổi trôi
Tận miền miên viễn.

Bây giờ, anh chị em trên đường tìm kiếm
Bằng lòng tin và chỉ có lòng tin
Nếu linh thiêng chú đừng phụ lòng tin
Tôi chờ, mấy mươi năm, tôi vẫn tin có chú.

Ôi đau đớn cho tim tôi
Tôi mong ngày được khóc,
Đưa chú về với cát bụi thời gian
Để lòng tôi thanh thản trong nỗi đau trần thế

Lời hứa với lòng có thể gần trọn vẹn
Chú nằm đâu ???
Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Hồn vật vờ trên cành cây ngọn cỏ

Gió núi mây ngàn mãi đến hôm nay
Nợ núi sông không còn chi để trả
Thôi về đi, đồng đội chú đang chờ
Về đi, em ơi, mẹ cha cũng đang chờ

NHẬT KÝ HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI THAM GIA TÌM KIẾM

... Mặc dù không tin lắm vào các nhà ngoại cảm nhưng nghe lời anh Thuận ngày 5/8/2010 chúng tôi vào Đà Nẵng  gặp các nhà “ngoại cảm”. (ngưng trích)

…Sau khi cúng tổ tiên, chúng tôi lên đường từ Huế với nhiều lo âu, cầu khẩn Trời, Phật gia hộ, không một ai trong đoàn nói ra nhưng đều thể hiện niềm tin mãnh liệt chuyến này chắc sẽ có nhiều may mắn thành công.
… Đến Đà nẵng cùng tháp tùng những người tự xưng là “nhà ngoại cảm” tiếp tục hành trình đến Măng Yang ( Tỉnh Gia Lai). Đoàn đã đến Măng Yang vào 12 g đêm hôm đó.

10/8/2010

Từ nhà trọ tồi tàn dơ bẩn của huyện, 5g sáng chúng tôi đến trại Gia Trung, họ hẹn 7giờ 30  sáng quay lại.

        (Vào văn phòng trại có ba người, hai người bốc mộ và em tôi, nhưng trại chỉ cho một mình em tôi vào phòng lưu trữ vì là thân nhân ruột thịt). (theo lời kể của em tôi)

Xin làm việc với trại Gia Trung, từ những tư liệu lưu trữ cẩn thận, các ông quản giáo ở đó đã cấp cho chúng tôi những thông tin: “ Về trường hợp của anh tôi, vượt trại  ngày 12 tháng4/1979, bị bắn chết đâu đó ở vùng Biên giới VN-Campuchia ngày 2 tháng 5/1979, hiện không chôn cất tại khu chôn cất của trại. Chúng tôi hoàn toàn tin vào nguồn thông tin này vì nó được ghi trên loại giấy vàng khè chỉ dùng trong thời bao cấp đó. Họ còn nói họ ủng hộ việc làm của chúng tôi ,nhưng họ không tin chúng tôi có thể tìm ra nơi chôn cất, vì cách trại Gia Trung trên 100km. Họ khuyên chúng tôi nên trở về và lấy ngày đó mà làm đám giỗ cho anh. Lúc đó, thú thật trong lòng tôi cảm thấy vô vọng và buồn vô cùng. (ngưng trích)

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm vắt gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
(NGUYỄN DU)

(Dưới đây là cuộc đối thoại giữa em tôi với những công an của phòng lưu trữ hồ sơ tại trại Gia Trung):

-CA: Chị tìm đến đây có việc gì không?
-T:   Tôi có người anh ruột sau 1975  đi tập trung cải tạo ở trại Hóc môn sau đó được chuyển về đây, năm 1979 vượt ngục bị bắn chết, tôi muốn trại cho tôi biết những thông tin về anh tôi mà trại đang lưu giữ.
-CA:  Từ đâu chị có nhưng thông tin này
-T: Tình cờ anh tôi nói chuyện với bạn bè, nghe được chuyện anh Hòa tôi nên dò hỏi
-CA: Những người hồi đó cải tạo ở đây, đến hạn được thả về sau này đi Mỹ cả rồi
-T: Tôi mong các anh tìm lại hồ sơ năm 1979 giúp tôi
-CA: Chị từ đâu đến?
-T: Tôi đến từ Huế và mong các anh hiểu cho nguyện vọng của gia đinh chúng tôi  là tìm được và mang hài cốt anh tôi về mà thôi
-CA: Anh của chị tên gì?
-T: Anh tôi tên Nguyễn văn Hòa, sinh năm 1954

Họ lôi ra xấp hồ sơ giấy vàng khè và cho biết:

-CA: Anh chị trốn trại ngày 12 tháng 4/1979, ngày 2 tháng 5/1979 bị bắn chết ở vùng biên giới VN-Cam puchia
-T: Các anh có biết đích xác nơi chôn anh tôi không?
-CA: Thường những người chết trong trại đều chôn ở đây, và chúng tôi sẽ tạo điều kiện cho thân nhân di dời, trường hợp anh của chị chắc chôn trong rừng thì chúng tôi không biết.

Thấy tôi có vẻ buồn họ nói:
-CA: Chúng tôi khuyên gia đình nên trở về và lấy ngày 2 tháng 5/79 làm ngày giỗ cho anh ấy chứ chắc chắn không tìm được hài cốt đâu vì biên giới cách đây hơn 100km, mà đã sau 32 năm rồi!
-T: Có thể có ai đó trong các anh biết điều gì không?
-CA: Chúng tôi là lớp trẻ sau này nghe kể lại thôi!

Chợt nhớ ra điều gì, một công an nhấc máy điên thoại và gọi cho ai đó.
-CA: Tôi vừa gọi cho ông cán bộ hồi đó bị nhóm người này búa cho 6 búa nhưng không chết hiện vẫn còn đang công tác tại đây nhưng đang trong thời gian nghĩ phép, (may là ổng nghỉ phép chứ nếu không thì tôi là người nghe ổng chửi và có thể công viêc tìm kiếm chấm dứt ngang đây!), ổng nói hồi đó vết thương nặng, phải điều trị lâu nên ổng không biết.

Tôi không nói gì thêm.

-CA: Chị và gia đình nên về Huế và mỗi năm tới ngày kỵ giỗ cho anh ấy thôi, không nên tìm làm gì, sau mấy chục năm không còn chi để mà hận thù, nhưng chúng tôi không biết nên không thể giúp cho chị được.  (ngưng trích)

NHẬT KÝ HÀNH TRÌNH (TIẾP THEO)

... Khi chúng tôi vào một quán ăn nghèo nàn  trước mặt trại Gia Trung để ăn lót dạ và cúng cho anh tôi 1  bữa ăn sáng thì ông già chủ quán hỏi thăm, chúng tôi kể sơ cho ông nghe sự việc, ông ấy bảo hồi đó ông cùng vài người bạn đi khai thác gỗ  trong vùng đó, có nghe nói 1 toán 7 người vượt trại Gia Trung nhưng có 2 người bị bắn chết tai chỗ, những người còn lại chạy lên vùng thuộc đồn biên phòng 725 hiện giờ, sau đó bị du kich phát hiện bắn chết 2 người, còn mấy anh còn lại bị giải về trại Gia Trung. Lúc này thì tôi tin anh Hòa đang theo chúng tôi từng bước. Chúng tôi đã mời ông già này cùng lên xe đi chỉ đường cho chúng tôi và hứa sẽ hậu tạ nhưng không biết vì lý do gì ông ấy từ chối. Chính ông ấy cũng không tin chúng tôi tìm ra mộ vì đã hơn 30 năm giữa rừng núi, nếu họ đem xác về trại chôn thì trong hồ sơ trại đã có ghi. Thấy tội nghiệp cho chúng tôi ông đã chỉ đường cho chúng tôi lên biên giới. Lúc này chúng tôi quyết định dù thế nào cũng phải lên biên giới cho thỏa lòng, vậy là chúng tôi lên xe tiếp tục cuộc hành trình.

Đi dọc theo quốc lộ 19, đến đoạn rẽ vào đồn biên phòng chúng tôi bắt đầu gặp rắc rối vì khi chúng tôi hỏi đường dân đia phương, người thì nói không biết, người thì chỉ đường sai nên chúng tôi đã phải quay xe lui tới 7,8 lần trên đường rừng đất đỏ Ba zan. Nhìn rừng núi trùng trùng điệp điệp chúng tôi đã nản lòng vì giữa bạt ngàn rừng núi biết tìm anh tôi ở đâu??? (ngưng trích)

... Chúng tôi chỉ biết cầu nguyện anh Hòa nếu linh thiêng hãy phù hộ cho chị em chúng tôi tìm được anh ấy, cuối cùng, chúng tôi dừng lại hỏi một cậu thanh niên, may mắn thay, cậu ta nói đang trên đường đến đồn Biên phòng 725 và tình nguyện làm người dẫn đường. Lời cầu nguyện của chung tôi đã được đáp ứng!

Đi khoảng hơn 5km cậu ta dừng lại nói đã đến nơi cậu ta muốn đến và chỉ cho chúng tôi tiền trạm của đồn biên phòng cách đó không xa, lúc đó là 12g trưa ngày 10 tháng 8. Thường thì ít khi có mặt đồn trưởng ở đó, nhưng may mắn cho chúng tôi là sáng nay đồn có việc họp và họ mới ăn cơm xong, họ tiếp đãi chúng tôi tốt và hỏi chúng tôi có việc gì mà đến tận đây, sau khi nghe tôi nói rõ sự tình, ông đồn trưởng đã gọi điện cho ông cựu đồn trưởng hỏi xem có nghe hoặc biết về trường hợp của anh Hòa không? Ông ấy nói có biết và nói rõ là bị bắn tại đây (hồi đó đây gọi là làng Bò vì người dân tộc nuôi rất nhiều bò) còn nói gia đình nên dừng lại tìm kiếm ở đây không nên lên tận đồn biên phòng trên biên giới. Ông còn cho biết tên của những du kích và công an xã hồi đó trực tiếp tham gia vụ việc này. Giờ thì chúng tôi có quyền hy vọng sẽ tìm được anh tôi!

Ông đồn trưởng mời chúng tôi nghỉ ngơi ,biết chúng tôi đường xa tới và đây là vùng giáp biên giới, không ai lui tới làm gì nên không  có quán ăn dọc đường, ông đã lệnh cho những người dưới quyền nấu cơm cho chúng tôi ăn. V́ lúc này là giữa trưa nên ổng hẹn sẽ dẫn chúng tôi đi gặp những người có liên quan vào lúc gần 2g chiều. Đây là địa phận thuộc huyện Đức Cơ, xã Ia Pnôn.

Khi chúng tôi ăn cơm xong (khoảng gần 2g ) ông nói vì đường khó đi  mà ổng lại đi xe máy nên chỉ chở được 1 người đi gặp các người đó, chúng tôi hội ý nhanh và quyết định sẽ để chồng tôi đi cùng, chị em tôi lại một lần nữa khấn nguyện với anh Hòa. Chúng tôi ngồi chờ mà lòng hồi hộp,  bồn chồn không thể tả, thương cho anh tôi hơn 20 ngày đêm băng rừng vượt suối khổ sở biết nhường nào để rồi kết cục là phơi xác giữa rừng cách quê hương gần ngàn cây số! (ngưng trích)

...Chúng tôi lên xe đến gặp những người đó, đối mặt với những người từng truy sát anh tôi... (ngưng trích)

(Trên đường đi của gia đình lên Gia Lai, anh Sơn gọi phone nhắc tôi về anh Giám, nếu tìm ra Hòa thì bốc luôn anh Giám về, tôi nghĩ tại sao không???, cũng là anh em cả, tôi vội điện cho em tôi nói rõ ý tôi về Giám, và dứt khoát phải đem Giám về, hoặc cả hai, hoặc không có ai) .

.... Bọn họ kể, anh Giám ( họ không biết tên), bị bắn chết chôn trong rẫy cao su, còn anh Hòa (họ nói cao hơn anh Giám) chôn ở gần đây.Và họ dẫn chúng tôi đến nơi chôn anh ấy, đó là khu nhà mồ của dân tộc thiểu số Gia rây và Ê đê (gọi là nhà mồ nhưng chỉ là những căn nhà nhỏ tồi tàn trong đó có quan tài để nổi lên trên hoặc chỉ là những cái chum) anh tôi nằm trong lùm cây um tùm, thấy mà xót xa quá!!! Chúng tôi thắp hương nơi anh tôi nằm xuống rồi về lại tiền trạm của đồn biên phòng 725.

Từ lúc này trở về sau chúng tôi đã gặp không  biết bao nhiêu cản trở. Đồn biên phòng nói họ rất muốn giúp đỡ chúng tôi nhưng đây thuộc đia phận của xã quản lý, chúng tôi phải xin phép xã mới được bốc mộ, chúng tôi lại cử chồng tôi vào ủy ban xã xin giấy phép, ban đầu họ đồng ý cho chúng tôi bốc mộ, với điều kiện, phải có từ 3 đến 4 người làm chứng đây đúng  là nơi chôn anh ,chúng tôi đã mời đủ 3 người, thế nhưng sau khi nghe ý kiến của trưởng công an xã thì ủy ban xã  lại đổi ý, lý luận rằng: chúng tôi tới đây mà không vào ngay ủy ban, số là khi chúng tôi đang ở trong tiền trạm đồn 725 thì ông ta đang ăn nhậu ở nhà bên cạnh, ông ta vu khống đồn biên phong đào được vàng mà giữ lại ăn môt mình, còn tay bí thư đảng thì nói thẳng “thằng này dân ác ôn không cho dời”, rồi áp lực lên một dân bản làm ông này từ chối không làm chứng nữa vì sợ, dù trước đó bác này rất nhiệt tình. Chúng tôi lo và buồn, nghĩ không lẽ đã đến đây mà lại về tay không? Khi chúng tôi khẩn khoản xin thì ủy ban hẹn mai sáng trở lên đây họ sẽ giải quyết kèm theo điều kiện phải có những người làm chứng, chứng minh đó là mộ của anh tôi.

Tôi nói cứng với họ: Nếu ngày mai chúng tôi quay trở lại mà các anh không giải quyết thì chúng tôi đành gởi anh tôi lại, chỉ xin một nắm đất về thờ thôi vì dù sao chúng tôi cũng đã mang linh hồn của anh tôi về với tổ tiên rồi!. Nói thì nói thế nhưng ruột gan chúng tôi như lửa đốt, lại cầu nguyện anh Hòa giúp cho mọi chuyện thuận buồm xuôi gió.

Những chức sắc ở đây ai cũng nói nơi anh tôi nằm là  khu nhà mồ nên rất khó cho việc bốc mộ, nếu trong khi bốc mà đụng phải xương cốt của người làng thì phải nộp phạt trâu trắng trâu đen gì đó cho làng, ủy ban lại nói lỡ sau này trong thôn bản có người đau ốm họ cũng sẽ bị làng phạt vạ y như thế. Chúng tôi chưa bao giờ gặp những luật lệ như thế này nên ai cũng rất lo lắng, trời đã về chiều, đồn biên phòng khuyên chúng tôi nên trở về huyện Đức Cơ tìm nơi trọ, sáng mai lên đây tính sau, họ còn nói nếu dân làng không cho phép họ sẽ giúp chung tôi bốc vào ban đêm (dân làng ở đây chiều lại tu tập nhau uống rượu cần, tối 9g là không ai ra đường nữa).(ngưng trích)

(Khi nghe về chuyện bốc lén vào ban đêm, tôi đã gọi về cản ngăn, vì tôi nghĩ rằng đã hiên ngang thì mãi mãi hiên ngang, tại sao lại làm lén, không cho bốc thì về, cát bụi rồi cũng về với cát bụi, và tôi gởi email tâm sự cùng các anh Hùng, Hiếu và Sơn, lúc này bạn đồng hành của tôi là các anh, lại nữa, đêm hôm tăm tối, ai biết chuyện gì sẽ xảy ra).

...Trở về huyện Đức Cơ với tâm trang rối bời, chúng tôi không ai ngủ được, nhưng ai cũng nghĩ phải cố đem hai anh về ( lúc đi anh Thuận có dặn cố gắng đem anh Giám về vì anh ấy không có người thân). Mọi người cố tìm cho được phương án tối ưu, phân tích nguyên nhân tại sao không được dời mộ? Có thể có những luật bất thành văn chăng? Chắc chắn không phải do không được phép vì những đối xử đúng mực của trại Gia Trung và đồn Biên Phòng đã chứng minh điều đó. Điều cũng rất may là chiều tối đó chúng tôi đã tìm được sự cam đoan và lời hứa của các già làng và một số niên lão: xác định và làm chứng cho sự việc anh tôi bị bắn và địa điểm chôn anh tôi. Đây là tia sáng giúp chúng tôi có hy vọng.

11/8/2010

Sau một đêm không ngủ, lại cùng nhau lên xã Iapnôn. Do đáp ứng đủ yêu cầu của xã về nhân chứng và do những người dân tộc có chôn người thân trong khu vực đó đến xác nhận nơi anh tôi nằm không dính dáng gì đến xương cốt người thân của họ (có một bà già ra chỉ nơi chôn chồng bà nằm cách anh tôi chừng 1,5 m). Nên xã đã đồng ý bằng miệng cho chúng tôi đi xác định nơi chôn anh tôi thông qua du kích xã, (toàn là người dân tộc), đến phát dọn cây rừng cho chúng tôi dưới sự chứng giám của các già làng và niên lão với điều kiên phải trả thù lao cho họ. Còn chuyện bốc mộ phải thỏa mãn một số điều kiện khác.

Xã Ia Pnôn

Khi vùng anh tôi nằm đã dọn sạch cây cỏ, đoàn chúng tôi bắt đầu tham gia xác định phạm vi khuôn đất có hài cốt anh tôi để chuẩn bị cho việc tìm kiếm tiếp theo. Nhờ sự chỉ dẫn chính xác của các già làng và dân quân thời đó mà việc xác định mộ của chúng tôi tiến triển thuận lợi chỉ gói gọn trong một diện tích rất nhỏ khoảng 2m2. Đây là tiền đề vô cùng quan trọng và dễ dàng cho chúng tôi tìm thấy xác anh tôi sau này.

Lúc này xuất hiện một rào cản khác, già làng đưa ra điều kiện để hốt xác anh tôi về là 10.000.000 đồng / mộ và phải đi vòng đường núi không được qua làng (chi tiết này chúng tôi có ghi âm lại, đó là trao đổi của các nhà “ngoại cảm”  và các già làng). Chúng tôi phải chấp nhận, dù chúng tôi phải cần kiệm từng đồng trong sinh hoạt và thể lực kiệt quệ. Lúc này chúng tôi mới thấy rõ dân ở đây không đơn giản như chúng tôi đã nghĩ, họ bắt đầu lộ rõ bản chất! Nhưng chính vì họ gây khó khăn cho chúng tôi như thế nên chúng tôi quyết tâm bằng mọi giá phải đưa các anh về, không thể để các anh sống nơi chốn hoang sơ thêm một ngày nào nữa. Việc bốc mộ bây giờ không chỉ phụ thuộc vào chính quyền mà còn bị ràng buộc bởi hủ tục của người dân tộc.

Xong việc xác định mộ anh Hòa, chúng tôi lên xe đi tìm nơi anh Giám nằm, con đường chung tôi sắp đi là đường rừng mà dân bản men theo đó để đi làm nương làm rẫy, rất hẹp! Nhìn con đường trước mặt, chúng tôi ai cũng lo lắng ra mặt, may mắn chiếc xe chúng tôi thuê thuộc dạng xe leo địa hình và cháu Lộc tài xế lại thuộc hàng cao thủ. Xe nhích lên từng bước vì đường lầy lội sau cơn mưa, thêm vào đó lại gập ghềnh, cây cối hai bên lại vươn ra vì thế hai cháu Bo và Lộc phải thay phiên nhau xuống chặt bớt nhánh cây để xe có thể trườn vào, đi khoản nữa giờ thì đến rẫy cao su mà các già làng nói là nơi chôn anh Giám, muốn lên rẫy phải chui qua bụi rậm leo qua con hào nhỏ rồi vào rẫy, đây là rẫy cao su của một người dân tộc tên là Gian, anh ta người bản khác tới đây bị bắt rể (cưới vợ), ở đây vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nên anh ta phải ở nhà vợ, cha vợ anh ta lúc con sống đã chứng kiến việc chôn anh Giám. Đến nơi các già làng chỉ chúng tôi thấy toàn là cao su trồng mỗi cây cách nhau 2m, anh Giám được chôn dưới 1 gốc cây cao su, người dân ở đây nói không hy vọng tìm thấy xác anh vì mỗi năm mỗi cày xới, tội cho anh quá! Chúng tôi thắp cho anh nén nhang sau 32 năm nằm yên nơi rừng thiêng nước độc. Dù thế nào chúng tôi cũng  vô cùng biết ơn các già làng, nhờ họ mà việc xác định vị trí anh Giám nằm không khó lắm. Lúc đó đã hơn 12g trưa chúng tôi cùng nhau trở về huyện Đức cơ và hẹn 2g chiều sẽ lên lại bàn với xã những việc cụ thể để mai sáng lên bốc mộ.

Chiều 11/8/2010

Trên đường về Đức Cơ, chúng tôi suy tính thiệt hơn, làm thế nào để có thể bốc được mộ của cả 2 anh được trọn vẹn, giảm chi phí và phiền hà. Thực tế lúc này những thành viên gia đình muốn có tiền để đáp ứng tất cả đòi hỏi nhưng lực bất tòng tâm.

Chiều đó những người bốc mộ đề xuất bốc mộ anh Giám trước, vì anh ở xa các cơ quan chính quyền và dân cư. Họ nói sẽ bốc mộ anh Giám cho vào ba lô mang về, ngày mai chỉ bốc mộ anh Hòa rồi về luôn. Không hiểu sao lúc này tôi thấy không an tâm về việc làm của họ, nhưng tôi không ngăn cản vì anh tôi ở xa gọi về nói hãy làm theo lời họ sẽ có kết quả. 

 Khoảng 5 giờ chiều chúng tôi thực hiện phương án này, chồng tôi cùng cháu Bo và cháu Lộc thay phiên nhau đào, người anh đầu đàn của chúng tôi bị sốt ngã nước không thể đi nên phải nằm lại nhà trọ.

Sự việc đến đây xảy ra nhiều rắc rối với dân bản và kế hoạch bốc mộ chút nữa đổ vỡ hoàn toàn.

Lúc chúng tôi đào đất trên mộ anh Giám là lúc những người dân tộc trên đường từ nương rẫy về sau một ngày làm việc, thấy lạ ai cũng đúng lại nhìn, không may cho chúng tôi là Gian chủ rẫy cũng là một người trong số đó, hắn hỏi chúng tôi làm gì, sau khi biết chúng tôi muốn đào đât lên tìm hài cốt hắn cố tình cản trở, sau một hồi điều đình, hắn ngã giá và để được tiếp tục công việc chúng tôi phải đền cho hắn 1triệu đồng/cây, may mà trên mộ anh Giám chỉ có một cây cao su!! Tưởng là không còn gì phải lo chúng tôi tiếp tục công việc dỡ dang, bây giờ là 6g chiều, trời bắt đầu tối dần, các nhà “ngoại cảm” vẫn chưa thấy được hài cốt của anh Giám. Chúng tôi ai cũng nôn nóng vì trời tối phải dùng đèn pin soi mà vẫn chỉ thấy mọi vật mờ mờ. Đang tiếp tuc công việc thì bất ngờ một đoàn già làng kéo đến với những bộ dạng hung hãn, thì ra tên Gian sau khi lấy tiền đền bù đã chạy về làng khoe và sự việc tới tai các già làng, họ sợ nếu bốc được mộ anh Giám rồi chúng tôi sẽ không chung cho họ đủ số tiền như đã hứa nên buộc chúng tôi ngay bây giờ phải ứng trước cho họ 50% số tiền đó, đồng thời họ bắt buộc chúng tôi phải dừng ngay lại. Quả thật chúng tôi rất sợ ! Họ trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng của bộ tộc họ nên chúng tôi hoàn toàn không hiểu gì, bóng tối thì gần như bao phủ cả khu rừng. Buộc lòng chúng tôi phải đưa tiền cho họ và thất thểu ra về, (có môt tên trong số đó kéo tay tôi vòi tiền riêng nhưng tôi không cho, chúng tôi đã ghi hình khuôn mặt hắn nhưng rất tiếc máy ảnh đã bị  trấn lột).(ngưng trích)

Bây giờ chúng tôi thực sự khủng hoảng, không biết ngày mai có bốc được mộ các anh không? Bọn họ sẽ còn bày ra những trò gì nữa để moi tiền của chúng tôi, tiền chúng tôi mang đi đã gần cạn ,vợ chồng tôi đã gọi điện cho người quen để vay mượn thêm. (ngưng trích)

Về tới nhà trọ cũng gần 12g đêm. Không ai trong số anh chị em chúng tôi ngủ được, càng bàn bạc chúng tôi càng bế tắc, họ ở trong bóng tối còn chúng tôi ở ngoài ánh sáng, họ có thể hại chúng tôi bất cứ lúc nào nếu họ muốn. Càng nghĩ chúng tôi càng thương cho các anh tôi, thương anh tôi quá! Tôi không dám nghĩ tiếp nữa. Ngày mai sẽ ra sao đây? Chỉ biết cầu nguyện và cầu nguyện: Anh Hòa linh thiêng chứng giám, nếu anh muốn về bên ba mẹ tổ tiên hãy giúp cho chị em thoát khỏi vòng vây này. Ba mạ ơi, phù hộ cho chúng con, đây có lẽ là cơ hội cuối cùng anh chị em chúng con có thể đoàn tụ bên nhau dù kẻ âm người dương. Khó khăn và gian khổ, chúng con phải làm sao đây????

12/8/2010

            Một đêm ngủ dật dờ đầy ác mộng, đến 4giờ kém 15, chúng tôi sửa soạn cho chuyến cuối cùng tới bản làng Ia Pnôn, (hy vọng sẽ là chuyến cuối cùng!!!). Nào rựa, nào cuốc, nào xẻng......, chúng tôi còn cho vào ba lô cả mùng và chăn mỏng đề phòng khi phải ở lại rừng ban đêm, có cả dụng cụ y tế dùng để cứu thương tại chổ, chúng tôi bàn bạc kỹ để có thể ứng phó bất cứ khó khăn nào. Khi đã sẵn sàng mọi thứ chúng tôi lên đường, đến Iapnôn chỉ mới 5g30, đợi tới 6g cũng chẳng thấy bóng dáng ai, (trong khi họ hẹn sáng 6g lên đây sẽ có tất cả các bên chứng kiến để chúng tôi bốc mộ). Anh D ở đồn biên phòng phải chạy xe máy đến nhà các già làng kêu họ đến, lần lượt bên ủy ban xã, công an xã cũng có mặt đông đủ. Đến 6g30 chúng tôi tiến hành bốc mộ anh Hòa. Chúng tôi lòng hồi hộp và khấn nguyện Trời Phật, cầu mong anh Hòa chỉ đường cho chị em tôi. Đây là vùng đất đồi dốc thoai thoải, qua bao nhiêu năm mưa gió xói mòn, biết là tập quán ở đây chôn người rất cạn nên chúng tôi rất cẩn thận khi đào bới đất, khi đào xuống độ sâu khoảng 20cm thì dùng bay cào nhẹ và trời ơi! Chúng tôi thấy anh nằm đó với thân hình co quắp, không thể ngăn được nước mắt chị em tôi cứ thế tuôn trào, (bây giờ đây khi ngồi viết những dòng này tôi để cho nươc mắt tự do rơi).

Tại phần thân thể anh tôi đất đổi màu đen khác với chung quanh và trũng xuống thấp hơn mặt đất quanh đó, (tiếc là hình ảnh tư liệu quí giá đã không còn), do vậy hiện nguyên hình người nằm đó khố đau! Chị em tôi như bị ai đó xé nát tâm can, có ai hiểu cho chị em tôi khi đối mặt với thưc tế chua xót này! Trước đó người chứng kiến viêc chôn anh tôi nói có gói anh trong bọc ni lông, nhưng té ra chỉ là nói để lập công, mấy hôm nay chúng tôi hy vọng sẽ còn xương cốt của anh ấy dựa vào lời nói đó. Bây giờ khi sư thật đã rõ ràng, họ lại nói người dân tộc rất sợ mọi chuyện liên quan đến người chết nên họ không chôn, bộ đội biên phòng chôn nhưng lúc đó còn quá nghèo nàn lạc hậu không có cái ăn làm gì có bao ni lông mà chôn. Nhận định của tôi là lúc đó họ hất anh tôi vào chỗ trũng rồi lấp đất lên cho có vậy thôi.
          
Bây giờ là công việc của “các nhà ngoại cảm” (hay là các nhà bốc mộ???) chúng tôi đề nghị họ hốt tất cả đất thuộc phần thân thể anh tôi, tất cả đất đen, duy nhất ở vùng cổ còn lại một mảnh xương, âu đó cũng là di vật cuối cùng anh để lại cho gia đình và an ủi chúng tôi đã dấn mình vào chốn hiểm nguy mang anh về với tiên tổ và bây giờ tôi có quyền tin ba mạ tôi đang ngậm cười nơi chín suối.( ngưng trích)

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
(NGUYỄN DU)
         
Bây giờ từng phần thân xác anh Hòa đã được chúng tôi bọc cẩn thận trong giấy điều, (môt loại giấy  màu đỏ chỉ dùng cho các nghi thức cúng kiến), bên ngoài chúng tôi bọc thêm một chiếc áo mưa mới, rồi cho vào ba lô.

Theo thỏa thuận của bản làng và gia đình thì khi bốc xong mộ muốn đi ra khỏi làng chúng tôi không được phép mang hài cốt đi qua cổng làng, mà phải men theo đường rừng khoảng 3km có dân bản dẫn đường. Cháu Bo được phân công cõng cậu ra đường cái. Để tránh tình huống xấu xảy ra, chúng tôi phải nhờ người quen là bộ đội biên phòng bảo vệ trên đường đi. Khi Bo khởi hành cũng là lúc nhóm người còn lại sẽ lên mộ anh Giám tiếp tục công việc đã bỏ dở hôm trước.
           
Lúc này chúng tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm, không giao ngay số tiền còn lại và tiền dẫn đường cho họ vì có người có thiện cảm với chúng tôi cho biết: “trên đường đi họ có thể xúi những làng xung quanh chận đường để làm tiền chúng tôi, hay đòi thêm tiền...”.
           
Ở mộ anh Giám công việc có phần nhẹ hơn, vì phần lớn lớp đất trên mặt đã được lấy hết từ chiều ngày 11/8. Chỉ cần tách thêm lớp rất mỏng là đã phát hiện được hình hài anh. Điều thương tâm đối với anh Giám là thân xác không còn nguyên vẹn như trường hợp anh Hòa. Chúng tôi cố gắng lấy tất cả gì phát hiện lúc đó. Lý do: vùng chôn anh là vùng đất canh tác, người ta đã đào xới để trồng cao su. Không như anh Hòa chỉ cần đào sâu 20cm, anh Giám thì chúng tôi phải đào đến độ sâu gần 70cm mới gặp được anh. Thế nằm của anh là nghiêng nghiêng không có gì bao bọc xung quanh, chúng tôi ai cũng chạnh lòng, số phận các anh thật khổ, anh chỉ còn là những nắm đất mà thôi!

Có lẽ tìm được các anh là một huyền thoại, không thể không có sự giúp đỡ, sự linh thiêng, che chở và phò trợ của các anh thì đố ai làm được?. Xin cầu nguyện chư thiên phò hộ độ trì các anh chóng siêu thoát, xin các anh tha tội cho chúng tôi những thiếu sót có thể có, vì chúng tôi đã làm hết khả năng của mình với lòng trân trọng nhất. Như lúc bốc mộ anh Giám, chúng tôi đã cầu nguyện được xin được phép xem anh như là anh em ruột thịt của chúng tôi vì anh là bạn đồng sinh đồng tử của anh tôi.

Cũng như anh Hòa tôi, thân xác anh Giám được chúng tôi tiến hành cẩn trọng từng bước như anh Hòa, tuy nhiên khối lượng bốc ít hơn vì lý do như đã nói ở trên. Anh Giám cũng được chuyển bằng đường rừng, theo một hướng khác, bằng cách như anh Hòa nhưng chỉ ra khỏi địa phận của làng thì người dẫn đường không chịu đi tiếp, lần này các anh biên phòng lại giúp chúng tôi làm người dẫn đường đưa hài cốt anh Giám đi tiếp ra đến nơi anh Hòa đang đợi!

Quan đã được chuẩn bị sẵn, chúng tôi đến một bãi đất trống để tẩm liệm cho hai anh, chúng tôi không cầm được nước mắt khi nhìn hình hài của hai anh bây giờ chỉ gói gọn trong hai quan tài nhỏ. Sau khi bày lễ vật cúng thổ thần để xin phép được đưa 2 anh về, gia đình chúng tôi gồm 5 người lên xe chở quan để khởi hành ra khỏi vùng đất hắc ám này nhanh nhất. (ngưng trích)

NGÔI NHÀ MỚI DÀNH CHO HAI NGƯỜI CON XỨ HUẾ



Nước mắt tôi chạy quanh, khi tôi viết bài này, tôi cũng không cầm được nước mắt, đời em tôi khi sống cũng khổ cực vì nhà nghèo, khi chết cũng đau đớn không kém, và tôi đã làm bài thơ này cho em tôi, trong nỗi đau cùng cực của tôi

Em tôi

Người chiến sĩ năm xưa,
Một người tù không tội
Ba mươi ba năm nằm lại
Làm phân bón cỏ cây

Co quắp, lạnh giá đêm cùng ngày
Một giấc ngủ, không an bình cùng giun dế
Trên thân thể em, phủ cây và rễ
Làm thế nào ủ ấm suốt mùa đông

Trên thân thể em, ba tấc đất lạnh lùng
Làm sao em chịu được với mùa hè oi bức
Thân chiến sĩ nào xá gì cùng cực
Chí anh hùng đâu nệ cảnh gian nguy

Sống hiên ngang, chọn chết hiên ngang
Và em chọn hy sinh, chọn đường vượt thoát
Và em chọn, giấc ngủ dài không bóng mát
Không ấm mình trong tay ấp mẹ cha

Quân thù vùi xác em dưới gốc cây già
Bắt cỏ cây phải thành da ngựa
Giấc ngủ em không còn bình yên được nữa
Khi thanh bình em chưa thấy trên quê hương

Khi lòng thù không buông tha em
Đọa đày em trong ngục tù giun dế
Em nằm, trong hằn học của người trần thế
Không lòng nhân, dù miếng vải quanh thân

Bây giờ, em ngủ, trong tiǹh thân
Tình đồng đội, nghĩa anh em đằm thắm
Hãy mỉm cười đi em
Mỉm cười đi, vì bạn bè trông vọng

Lúc này gia đình chúng tôi không còn bị làm khó bởi địa phương nữa, mà lại bị làm khó bởi những người tự xưng là đại diện cho thế giới bên kia, nhưng dù sao tôi cũng cám ơn họ, vì dựa vào họ mà tôi tự xây dựng niềm tin, và tôi quyết liệt không cho ai xâm phạm niềm tin của tôi, đây cũng là một yếu tố để tạo nên thành công trong trường hợp này.

Tôi yêu cầu gia đình đặt hai vòng hoa thương tưởng đến hai chiến sĩ trong lòng chúng tôi, những đồng đội một thời kiêu hãnh, những đồng tù một thời gian khó, bây giờ kẻ còn người mất, nắm bụi trần đã yên nghỉ trên quê hương, nhưng lòng người viễn xứ vẫn mãi xót xa cho người phận bạc, thôi cũng một kiếp người, cầu mong bạn và em sớm siêu thoát, bạn bè xa gần hàng năm vẫn cúng giỗ đúng ngày, với niềm thương mến vô biên cho bạn và em, xin cám ơn những người bạn này với lòng kính trọng của tôi.

Gia đình tôi theo đạo Phật, chúng tôi làm lễ an táng theo nghi thức Phật Giáo, chúng tôi không biết tôn giáo của anh Giám, coi anh như là anh em trong nhà, lúc đầu không biết họ của Giám, gia đình định cho anh theo họ Nguyễn, may mà được xác nhận mới giữ họ Trần, mong chị Trần Ngọc Anh khi đọc những dòng chữ này thì liên lạc với tôi để biết hiện giờ anh ấy đang nằm đâu, chúng tôi đã làm bia mộ cho hai đồng đội, đẹp đẽ, khang trang.


Giữa gió núi mây ngàn bên bờ sông Hương núi Ngự, bên cạnh tiếng chuông chùa ngân nga, ngày đêm nghe câu kinh tiếng kệ mà vui với cảnh bồng lai, khi chết đã đau đớn tột cùng, 32 năm trả nợ núi sông, bây giờ an bình yên nghỉ,

Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
(NGUYỄN DU)

....Nhìn hai ngôi mộ song hành bên nhau trong khu mộ gia đình, lòng tôi đã hoàn toàn thanh thản, lần đầu tiên trong đời, tôi không còn gì để băn khoăn.

Người Việt Nam chúng ta mồ mả là điều vô cùng thiêng liêng, thể hiện sự kính trọng, tình thương, công ơn ... đối với người đã chết. Đây là tình cảm trước tiên của những người trong gia đình, bạn bè thân hữu đối với người ở bên kia thế giới. Đây cũng là điều tôi trăn trở, cố nén nỗi đau thương mất mát để quyết định  bằng mọi giá phải tìm cho ra đống tro tàn anh tôi, nằm yên dưới lòng đất sau hơn 30 năm. Cũng mong làm thỏa lòng phần nào tình thương, quan tâm của bạn bè anh tôi. (tâm sự của em tôi)



Tôi cho làm hai tấm bia thật đẹp cho hai đồng đội của mình với lòng trân kính và thương yêu, tôi tự hài lòng với chính tôi  và các bạn tôi, những ai cùng quan tâm tới hai bạn cũng đã hài lòng. Tất cả chúng ta đã làm tròn trách nhiệm với đồng đội, với những người anh em vắn số, hảy cùng tôi rót ly rượu mời dù muộn đến 32 năm


Câu chuyện chưa dừng ở đây, chúng tôi thật sự ‘sốc’ khi hay tin thi hài của Quốc vẫn còn nằm trong khu mộ tù Cải Tạo Gia Trung, việc bốc mộ Quốc rất dễ mà gia đình Quốc không làm, giấy báo tử đã về sau đó 4 năm (1983) tôi mạo muội bảo em tôi đưa di ảnh của Quốc vào chùa bên cạnh Hòa và Giám, lấy ngày Quốc chết làm ngày giỗ chung, vì tôi nghĩ rằng Quốc đã liều mình chết thay cho bạn, một hành động cao cả mà tôi phải biết ơn, chắc hương hồn Hòa và Giám cũng đồng ý như thế.



Thương thay

Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
(NGUYỄN DU)

Và xót xa thay

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Mênh mông góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
(NGUYỄN DU)

Và khốn khổ thay

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
(NGUYỄN DU)

Bài viết này có thể làm buồn lòng, ân hận, đau đớn cho người đọc. Những tâm trạng này là ngoài ý muốn của tôi. Xin khép lại câu chuyện đau buồn này vào dĩ vãng, cầu mong người đi vào chốn bồng lai tiên cảnh, người còn bớt đi những nỗi đau trần thế.

Chào thân ái
Nguyễn Văn Thuận