Saturday, October 7, 2017

TRI ÂN CHO NGƯỜI HẬU PHƯƠNG: Đêm không gian: “Chiếc áo bay của chồng tôi”

KQ Trương Văn Vinh
Đặc biệt năm nay “nữ kê tác quái, Gà mái đá gà cồ”, các bà xã của chúng ta đang vùng lên tung hô cho cuộc họp mặt KĐ51CT với niềm kiêu hảnh về Đêm “Chiếc áo bay của chồng tôi” khác hẳn những đêm không gian mộng thường bóng bẩy như “Một Thời Để Nhớ”, hay “Không Gian Hội Ngộ” hoặc “Vẩn Còn Có Nhau” …
Sau một phút suy nghĩ tôi tắc lưởi khen thầm các phu nhân của chúng mình chọn lời tựa gợi lại niềm kiêu hảnh cho các “Quả-phụ” bên quê nhà như bà quả phụ Trần Công Minh, “Xạ thủ phi hành” và bà quả phụ Nguyễn Hoàng Anh, “Cơ-khí phi hành” … làm cho tôi vô cùng cảm kích để hai chị gợi nhớ lại những tháng ngày hào hùng vì 2 chiếc áo bay của chồng mình, 2 nhân viên phi hành Công Minh và Hoàng Anh đang ghi đậm trên tấm bản đồng của Viện Bảo Tàng Báo Chí tại thủ đô Hoa Thạnh Đốn. (Newseum Address; 565 Pennsylvania Ave Nw, Washington, DC 20001) vào thâm khảm cũa các chiến sĩ đồng minh và du khách, khi nhớ lại cuộc chiến tàn khốc Hạ Lào Lam Sơn 719 mà thế giới so sánh như Normandy thế chiến-2 và cuộc đổ quân tại bãi Inchon, Triều Tiên chỉ khác là 2 cuộc hành quân trên là để xã rác thuyền xuồng đổ bộ, còn Lam Sơn 719 là xã rác trực thăng … thử hỏi biết bao nhiêu phi hành đoàn phải hy sinh cho trận chiến nầy?
Nhưng với sự thiệt hại vô cùng khiêm nhượng của Liên Đoàn 51 Tác Chiến qua nguồn MACV/SOG (Military Assistance Command, Vietnam – Studies and Observations Group) là 10/215 nhờ vào sự hướng dẩn anh em bay đi cũng như yễm trợ bay về của gunship Song Chùy; Tham dự gồm Sư đoàn Không Kỵ 101 và Liên Đoàn 51 Tác Chiến (3 phi đoàn 213, 219, 233)
 Năm nay, 2015 Chúa nhựt 6/9/2015 dưới Cali có tổ chức Đêm Không Gian với cái tên khá nổi trội đượm đầy nét kiêu hảnh do sáng kiến của các chị tự hào là thành viên thuộc đại gia đình Không Đoàn 51 Chiến thuật, vì đã thoát thai từ LĐ51TC trấn đóng vùng Hoả tuyến, Phi đoàn 219 đã từng bao vùng ở vĩ tuyến 18 trực rescue khi các AD-6 oanh kích BV, thả các toán Biệt Kích Delta STRATA bên Lào. Phi đoàn 213 đã từng tăng viện chiến đấu dưới đồn điền Chup, Cambodia 1970 qua Lào, Tchepon/1971.
Trên đồi Rockpile, trước khi quân Dù nhảy qua Tchepone, tướng Dư Quốc Đống đã cho tôi biết ông đã xin TT Thiệu ưu tiên dành gunship Song Chùy yễm trợ hoả lực cho ông vì ông không tin tưởng vào Không lực Mỹ.
Mà thật cái danh dự Không Đoàn đã hoàn thành tốt đẹp câu truyền thống của Không Quân “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè” bằng hành động thì thật ra các anh đã chu toàn một cách tuyệt đẹp dưới con mắt thán phục của đồng minh Hoa Kỳ từng chứng kiến anh em đã liều chết bay xuyên vào bảo lửa Hồng Hà-2 để cứu sống 2 phi hành đoàn 233 dưới trận địa pháo đủ loại đã tiền điều chĩnh sẳn dù rằng tướng Lãm Tư lệnh có kêu tôi trình diện căn dặn:
“Thôi hĩ … không được cho trực thăng vào cứu … chỉ hy sinh thêm PHĐ mà thôi … để họ rút ra theo trung đoàn-3 …”
Tưởng cũng nên viết sơ sơ về hoạt cảnh: Các chị chắc biết cái lò nướng bành Khọt màu đỏ đất sét hiện ra nằm trên cái đỉnh đồi màu xanh của cây lá. Cái lò bánh khọt thì có những hình chén đều nhau, nhưng đây là khác hẳn, vì hình chén và hình tô lớn, tô nhỏ nằm chồng lên nhau lẫn lộn, trang điểm trên ấy các chiếc dù hoả châu trắng như chiếc khăn tang chực chờ trực thăng đến, hể VC nghe tiếng máy TT thì họ thí sát khai hoả khắp nơi, khắp hướng, đủ loại súng lớn từ 152, 130 ly cho đến salvo rockets 122 + 107 ly, bắn trực xạ thì có đại pháo phòng không AAA, 100, 85 ly và gần hơn nữa là cối 120, 82 ly, chưa kể 14, 5 và cả rừng phòng không cơ động 12,7 ly, đó là chưa kể 57, 37 ly phòng không và 23 ly trên chiến xa PT-76.
Đến nổi trung úy HTC Đạt hover đáp bên cạnh Bunker cứ điễm Hồng Hà-2, mà đoàn viên thiếu úy HTC Phúc đang bị thương ở đầu gối vì mảnh tạc đạn, cũng không dám nhảy lên trực thăng của tr.u Đạt cách đó 20 thước vì bảo cát mãnh sắt pháo binh bao trùm che khuất trực thăng trước mặt nên đành ngồi dưới Bunker chịu trận. Chưa đầy 1 phút sau, xạ thủ phi hành la hoảng báo cáo mảnh đạn đã bay vào làm anh bị thương … Nhưng rồi 2 phi hành đoàn 233 cũng được cứu khỏi CCHL Hồng Hà 2 một cách kiêu hùng ngoạn mục. Nhưng …
                   Bên cạnh đó, Thời tiết sương mù làm vở mộng cứu thoát 2 phi hành đoàn 219 tại Đồi-31
Tại phòng họp TOC dưới hầm Hàm Nghi, tôi đã xin được bàn thảo với 3 đại-tá Cockerham, Battreallda, cùng Tham-mưu-phó Hành-Quân/QÐ-1, Nguyễn Đình Vinh, xin được 20 phút ngừng tất cả hỏa lực pháo binh tác xạ cũng như không yểm, để chúng tôi làm cuộc đột kích lấy yếu tố bất ngờ cứu tất cả 2 phđ H-34 và thương binh Dù. Sau một hồi lâu bàn thảo suy tính cân nhắc, rồi các đại-tá nầy mới miễn cưỡng chịu chấp thuận cho một thời gian khá ngắn.
Vòng chờ của các hợp đoàn chúng tôi, lấy vùng trời A-luối, 15 phút làm điểm tập hợp như là một vòng chờ cho cuộc phi-diễn bay vào khán đài Ðồi-31. Cuộc rescue nầy do sự quyết định của tôi chỉ trong vòng có 5 phút chớp nhoáng trong vòng 20 phút cho cuộc hành quân phải hoàn thành. Giờ G và Phút P tôi sẽ cho TOC biết ngay sau khi sương mù tan tại vùng hành quân.
Tôi sẽ đích thân cho TOC biết ngay sau khi năng kiến độ vừa thấy toả sáng. Sự cấp cứu chỉ cần 5 phút đột xuất trong chớp nhoáng là phải thi hành cho xong: 3 gunship sẽ bay sát ngọn cây cách nhau 5 giây echelon trái, tầm đạn cuồng sát trước mũi trên đầu địch 75 thước, trong vị thế cường kích một vùng bảo lữa phía trước. Ðiểm xuất phát TÐ/8 Dù gần Đồi-31, từ điểm chạm tuyến của đại đội Trinh-sát Dù, bay thẳng về hướng tây-bắc, thẳng đến sườn trái của Ðồi-31, trong lúc 3 H-34 ở cách sau 45 giây với cao-độ 150 thước song song với mặt rừng, 3 H-34 theo sau bay thẳng một mạch tới Bunker gần LZ để bốc tất cả đoàn-viên cùng thương binh Dù, dưới sự bao vùng cũa 6 bầu lửa minigun cover 4.000/6000 viên phút, rải đều như trận mưa rào nặng hột, lấy Ðồi-31 làm tâm điểm, chia đều khoảng cách trên chu vi oanh kích, tuyệt đối không xử dụng rockets chống Tăng mà chỉ dùng khi hữu sự, dồn nỗ lực rescue càng nhanh càng tốt; chỉ trừ khi lính BV phản ứng phóng ra khỏi hầm trú ẩn và chịu chấp nhận nghinh chiến thì đã bị bất khả dụng vì không tránh khỏi bị thương tích với hàng trăm ngàn cái đinh sắt ghim vào người họ vào lúc cao điểm khi H-34 đang đáp xuống. (Videos of flechette rockets bing.com/videos) - Hảy Click link nầy để xem Cobra oanh kích!
Hoạt cảnh sẽ xảy ra cuộc Rescue 2 phi hành đoàn 219 bị kẹt tại Đồi-31
Từ điểm xuất phát trên đầu 2 Ðại đội Trinh sát Dù bay thẳng đến Ðồi-31 là 4 cây số, theo sau 50 giây trên cao độ 150 thước cách mặt rừng 3 H-34 bay thẳng đến Bunker để đón tất cả 2 phđ và thương binh, vì đạn M-60 trên H-34 không nhiều nên chỉ tác xạ khuấy rối (neutralization) khi thấy 2 gunship kè hai bên phụt xuống bằng hỏa tiễn chống biển người, có nghĩa khi cơ-phi trên H-34 thấy từng cụm khói đỏ-hồng phụt ra từ 2 gunship kè hai bên, lúc đó cơ-phi hãy tác xạ tự vệ. Chiếc gun số 2, 3 sẽ dùng hoả tiễn chống biển người để chống trả. Coi như rockets chống Tăng cũa Lead Trần Lê Tiến [Trung úy Tiến và tôi là 2 người đầu tiên xác định gunship với USAF, và S/I.P-UH1 với 1st Army Aviation] chỉ để dành khi hữu sự mà không dùng càng tốt. Cái quan trọng nhứt là bốc thật nhanh đồng đội và thương binh Dù ra khỏi Đồi 31, vì đây không phải muc-tiêu cần phải tiêu diệt. Thực ra rockets chỉ là những hoả lực tự vệ, Minigun mới vô cùng lợi hại như dĩ vãng đã chứng minh, Vì lính BV không chịu nổi trận mưa đạn 7,62 ly
Tôi sẽ bay C&C cùng với sĩ quan tham mưu Tiền-phương Dù, xử dụng tối đa M-18 cùng M-60 bắn xuống vào những nơi mà sĩ quan tham muu Dù nghi ngờ để phụ thêm hoả lực lúc cao điểm. Thế là chúng tôi sẽ hướng dẫn 3 chiếc gunships trang bị 14 rockets chống Tăng, 28 rockets chống biển người, dẹp pod-rockets 19 thay vào pod-7 cho nhẹ và trang bị tối đa 12.000 viên 7,62 minigun cho dễ linh-động khi phải nhào lộn tác xạ. Trung úy Trần Lê Tiến sẽ lead 3 gun bay thẳng vào, trên ngọn cây, từ đám rừng già trước mặt, trên đầu 2 đại-đội Trinh-sát Dù. Khi bay qua khỏi vị trí Dù 45 giây thì bắt đầu khai hỏa: 6 xạ-thủ đứng xỗng lưng chồm ra ngoài rảo con mắt diều-hâu giội mưa xuống 4.000 viên phút, nhưng phải rút kinh nghiệm khi tăng khi giảm cường độ để duy trì hệ thống control-box không bị overcharge, bay thẳng một mạch đến bên trái Ðồi-31, lúc nầy Lead gun quẹo gắt qua phải lên cao độ bao vùng, kế tiếp chiếc 2 và 3 cùng lên cao độ, kè hai bên H-34 vừa mới tới mà phụt rockets chống biển người xuống bao vùng chung quanh. Tuyệt đối khai thác chướng ngại vật thiên nhiên, tàng cây, ngách núi, cùng khe-đá, phải chủ động khống-chế đối phương bằng hỏa lực cường tập, gầm thét, áp-đảo bằng minigun là chính, không cho phép địch ngóc đầu lên chống trả; chỉ xử dụng rockets khi địch quân dám xuất đầu lộ diện chiu chơi. Nếu có chiến xa cũng bắn chụp lên phủ đầu không cho chúng ló ngóc đầu ra khỏi pháo tháp bắn trả. Lead Tiến thấy cần thì một mình lấy cao độ hủy diệt nó, trong khi 6 miniguns vẫn tiếp tục nhả đạn, nhưng tốt hơn tha cho nó mà dành hỏa lực chỉ để rescue mà thôi. Ðiều quan trọng là cứu phi hành đoàn và thương binh là hoàn thành phi vụ với sự mãn nguyện đối với chúng ta 100%.
Hợp đoàn của chúng tôi sẽ phối họp bao vùng, không cần hoả yểm của Mỹ vì cũng chẳng ích lợi gì ở vùng núi cao hiểm trở nầy, như Mỹ đã tiền oanh kích một cách vô ích dưới sự chứng kiến cũa chúng tôi, mà còn báo-động cho địch ở vị thế sẵn sàng chiến đấu, hơn nữa lại còn làm cho địch biết trước rồi núp vào các hầm hố kiên cố cùng làm mất thế chủ động và bất ngờ. Rơi vào thế bị động như Mỹ. Ðộng-thái nầy có nghĩa không cho phép địch ở vị thế thượng phong chuẩn bị sẵn sàng phản-kích mà ta phải giành có quyền chọn thế thượng phong áp đảo bất ngờ. Trong chiến trận ai giành được thế chủ động thì người đó nắm chắc phần thắng.
Trung úy Tiến sẽ cover để vào vừa tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra trong vòng 5 phút tối-đa. Trên vùng trời Ðồi 31, 3 chiếc gunships khai thác tối đa, lấy Ðồi-31 làm tâm điểm chia đều cover trên châu-vi hình tròn mà mưa xuống không chừa chỗ nào để địch không có thể chòi ra bắn trả, vào lúc cao điểm khi H-34 vừa đáp thì được bao phủ kín-mít bằng cả trăm ngàn mũi tên đinh sắt ghim xuống. Nên chắc chắn một điều, hãy quên rockets mà chỉ chú trọng đến mưa đạn minigun, phải dí đầu mấy tay súng không cho phép địch chường mặt, tôi nghĩ chúng ta có thể làm được. Cuộc Rescue nầy rockets chỉ là hỏa lực tự vệ không cần thiết khi phải xung trận.
-Nhưng khốn nạn thay, trời không chiều lòng người, tạo nên một buổi sáng sương mù dầy đặt tan quá trễ. Lợi dụng trong khi sương mù bao phủ, các trung đoàn BV bôn tẩu với ý định lấy thịt đè người bằng xa luân chiến càn quét chỉ một tiểu đoàn-3 Dù trừ (300 tay súng mà thôi) trung đoàn chạm trán đầu tiên là 24B cùng với trung đoàn 27 cơ-động ở hướng tây bắc, chính nó vừa làm thiệt hại cho TÐ-6 Dù, ngay sau khi đổ bộ xuống để tiếp cứu Ðồi-31, tiếp theo đó 2 trung đoàn 102nd và 88 đang chuẩn bị tham chiến từ hướng đông-bắc thuộc Quân đoàn 70B, có trung đoàn chiến-xa 202 yểm trợ. Chúng quyết thanh toán Ðồi-31 với bất cứ giá nào. 
-Kế hoạch rescue của tôi hoàn toàn bị đình-động, khi bất thần 42 khẩu trọng pháo của Mỹ ở Khe Sanh đã đồng loạt tác xạ vào chung quanh Ðồi-31 vì áp lực của địch vô cùng dữ-dội, trước sự ngạc nhiên bất ngờ của chúng tôi, như vừa thỏa thuận buổi họp sáng nay. Quả thật, thời tiết đã làm hư hỏng kế hoặch mà Khe Sanh tháng nầy sương mù tan quá trể để các trung đoàn BV thừa cơ tấn kích sớm hơn hành động xuất phát phi vụ cấp cứu của chúng tôi.
          Nảy giờ, nơi 2 Bunker Ðồi-31, 2 PHÐ cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong hầm trú ẩn. Ðến trưa khi 2 PHÐ bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận địa, nói theo danh từ quân BV là "Trận địa pháo” dồn dập lên chung quanh Ðồi 31. “Than ôi! Ðúng là mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Quân BV đã lợi dụng sương mù chuẩn bị một lực lượng hết sức hùng-hậu, đông như Kiến mong sẽ chụp 300 thiên thần mũ đỏ chống đỡ. Vi dân-bay đã thấy trước qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, 2 PHÐ thây rõ hai chiếc thiết xa PT-76 còn T-54 không leo lên được nên từ dưới chân đồi bắn trực xạ lên Ðồi, Cả LÐ-3 Dù, mà chỉ có 300 chiến sĩ chống giữ. Quân BV thuộc Trung đoàn 24B/304 và thêm 2 Trung đoàn 9 và 66 sắp sữa tham chiến, chúng đang bôn tập từ hướng đông bắc tới.
Bây giờ Trung Ðoàn 24B đang tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc theo sau chung quanh nhắm đỉnh đồi-31 mà nhả đạn. Còn trung đoàn cơ-động 27 đang án-ngữ hướng tây chận TÐ-6 Dù ở bên sườn tây. Những tia lửa nòng súng phụt ra từ các PT-76 và T-54 thuộc Trung Ðoàn chiến xa 202. Dưới Bunker, dân bay thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ, đạn tránh người chớ người không thể tránh đạn!" Ngồi trên ghế lái C&C như Ðĩa phải vôi, tôi không ngờ quân BV mạnh và nhiều đơn vị cấp trung đoàn đến thế, chúng âm mưu tấn công như bầy kiến tha hột cơm, làm sao quân Dù phòng thủ cũa ta chỉ có 300 tay súng chống đỡ? Có cả thiết vận xa PT-76 và chiến xa T-54 từ dưới chân núi bắn trực xạ lên.
Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích 152 ly xuyên phá cũa của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào thiết-xa PT-76 địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc PT-76. Nhưng để trả giá cho hành động dũng- cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Anh em Dù vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 thiết-xa PT-76 khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi 31 mà bắn! Còn những chiếc T-54 không leo lên được thì sũa bậy bạ lên phía trên đồi đễ hù dọa các thiên thần mũ đõ. Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 Phantom xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình Trung Ðoàn 24B, và lại phá hủy thêm 2 PT-76 nữa. Nhưng chẳng may một chiếc F-4 bị trúng phòng không 37ly xì khói, phi công đang nhảy dù, thế là tất cả phi cơ Mỹ đều bỏ lại và dồn nổ lực vào rescue chiếc F-4, người quan sát viên Việt ngồi ghế sau thuộc Phi-đoàn 110 cũa FAC Bronco OV-10 đành thở ra lắc đầu ngao- ngán.
        Trong tiếng bom đạn tơi bời, dân bay mừng rở vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 thương yêu đang vần vũ trên cao cùng chiếc UH-1 C&C của con chim đầu đàn nguyện không bỏ anh em không bỏ bạn bè, đang vang vọng trên đó như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì quân BV tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, 2 PHÐ tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.và chịu cảnh hàng binh
Về phía KQ, Bửu, Khánh, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và ngay tức khắc bị dẫn giải ra bắc băng đường 92B chung với tất cả tù binh khác, vì sợ B-52 trải thảm. Không thấy Giang và Em đâu. Anh em KQ tim hỏi nhau, họ bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường bị áp tãi. Cuối cùng họ gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần cơ-phi Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi anh Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn anh Em gục chết ở bên đường.
Thế là PÐ-219 ghi thêm vào quân sử của LÐ/51/TC thêm một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên trái đồi oan-nghiệt nầy, Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, Khánh, On và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?
Thật không công bằng Secret Society đặt hàng tướng X/QLVNCH viết chiến sử nầy lưu hồ sơ Văn Khố không có KQVN tham dự.
Riêng trận chiến Hạ Lào dù rằng cố vấn Mỹ không tham dự, nhưng ký giả lại nghe qua lời người Mỹ tả cảnh với ẩn ý nói xấu QLVNCH cho phù hợp với xu thế thế giới phản chiến không mấy ưa cuộc chiến VN. Họ nói QLVNCH bị BV đánh tan nát, nhưng làm sao họ hiểu được. Cuộc hành quân vừa kết thúc sau 42 ngày, thì nguyên một Lữ Đoàn 2 Dù đã được không vận lên Kontum để chiến đấu với 3 sư đoàn BV không cho phép Hà Nội chiếm một tỉnh nhỏ như Kontum để làm thủ đô MTGPMN hay cái gọi là Điện Biên Phủ An-Lộc để làm thủ phủ cho MTGPMN trong khi quân đội Mỹ không tham dự.
Còn như ngày 30/4/1975 không khác gì người thợ săn chuyên nghiệp khi dơ súng nhắm bắn con Cọp đói đang đi tới, nhưng nhìn khẩu súng đã hết đạn … thì phải chạy thôi … dễ hiểu quá mà.
Người viết cãm thấy không công bằng trong sự kiện gọi là giải mật cuộc chiến Việt Nam nhưng lại với mưu đồ bóp méo sự thật để lưu giử vào Viện Văn Khố quốc gia Hoa Kỳ, NARA (National Archives and Records Administration)
         Cái làm người viết cãm thấy nhục nhứt là tướng VNCH (tác giả dấu tên) được đặt hàng viết về Operation Lam Son 719 cả trăm trang mà không nhắc đến VNAF dù một vài chử. Tại sao vậy? Theo tôi hiểu có thế vì tự ái là quân đội mạnh và thiện chiến mà phải nhận một sự thiệt hại quá nặng so với một Liên Đoàn 51 Tác Chiến so với một sư đoàn 101 Không Kỵ. Theo nguồn MACV-SOG. (Military Assistance Command Vietnam - Studies and Observation Group) nguồn MACV-SOG là: 10/215
Cái làm cho tôi uất nghẹn là Secret Society ra cái điều giải mật mà chắc chắn các bạn đã xem trên nhiều videos gọi là giải mật: hình chiếc H-34 mà trung úy Yên, Giang, Bửu tải thương từ Đồi 30 hay Đồi 31 về Khe Sanh. Chúng ta không thấy chữ gì để nhận biết VNAF hay 219 squadron? Thậm chí họ còn ráp nối lấy hình VM dẩn cả ngàn tù binh Pháp ở ĐBP chêm vào trong cuốn phim nầy để khoe kế hoặch của Harriman về 2 đấu pháp CIP/NLF đã thành công mỹ mản:
-Về CIP (Counter Insurgency Plan) của CIA, thì trong 45 ngày Operation Lam Son 719, Hoa Kỳ rút 60,000 quân về Mỹ an toàn.
-Còn NLF (National Liberation Front) của KGB bắt sống gần 10,000 tù binh VNCH như ĐBP bằng khoá chân bởi pháo phòng không trực xạ, rồi các trung đoàn BV bao vây ốc đảo la làng “Hàng sống chống chết” rồi bị xe truck Molotova do liên công ty Ford/Gorkey chở chiến lợi phẫm POW/ARVN về bắc trên đường mòn HCM 92B? (bằng ghép hình)
               "Đúng ra KGB phải than rằng tại sao trời sanh KGB sao lại sanh QueenBee-1 làm gì”
        Dù Secret Society bóp méo sự thật nhưng không giấu được những chứng cớ rỏ ràng ghi nhận tại thủ đô Hoa Thạnh Đốn nơi Bảo Tàng Viện Báo Chí nơi tấm bản đồng có tên Tạ Hoà, Diêu, Anh, Minh
Là danh dự được đại diện QLVNCH và kể cả KQVN, Liên Đoàn 51 Tác Chiến nói riêng đã lưu lại trên tấm bản đồng tại thủ đô Hoa Thạnh Đốn, nơi Bảo tàng viện Báo chí (The Newseum is an interactive museum of news and journalism located at 555 Pennsylvania Ave. NW, Washington, D.C) những anh hùng liệt sĩ của Phi đoàn 213, trung úy Tạ Hoà, Nguyễn Diêu và cơ phi xạ thủ Nguyễn Hoàng Anh cùng Trần Công Minh.
Cũng tại nghĩa trang Arlington, 3 đoàn viên Queenbee Tr.u Phan Thế Long, Tr.u Nguyễn Văn Tùng, và Thượng sĩ Vỏ Văn Lành đang an nghĩ dưới hàng dương thông reo sau tang lể trang trọng đã hy sinh cho nên hoà bình thế giới. Tất cả đều trực thuộc Liên-Đoàn 51 Tác Chiến
 
 Anh em TRỰC THĂNG thân thương!
Những ngày tháng còn lại của chúng ta quá ít, chúng ta có nên gặp nhau vào đêm KHÔNG GIAN nầy không?
Xin trân trọng thân gởi đến quý bạn Cơ-Phi, Xạ Thủ, Áp Tải Phi Hành, Y Tá Phi Hành, Path-Finder … chúng ta nên gặp nhau một lần nầy đi, nhứt là “phụ nữ vùng lên giành cho bằng được đặt cái tên “Chiếc Áo Bay Của Chồng Tôi” thật là kiêu hảnh, công bằng không giai cấp!!!!.
TRUONG VAN VINH: TK/ĐTTT/BTLKQ

Tuesday, October 3, 2017

“The Vietnam War”, một bộ phim đồ sộ… rỗng tuếch?

Sáu mươi hai năm (1955-2017) sau khi can thiệp vào cuộc tranh chấp tại Việt Nam, người Mỹ vẫn chưa hiểu tại sao Hoa Kỳ đã có mặt tại đó, và tiếp tục tranh cãi, tiếp tục tìm cách giải thích.
Ký Thiệt

Bộ phim “The Vietnam War” đang được chiếu ở nhiều nơi, và được nhiều người nói tới, là cố gắng mới nhất của người Mỹ để giải thích và rút tỉa bài học từ cuộc chiến gây nhiều chia rẽ và tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa K‎ỳ.
Bộ phim này dài tới 18 giờ chiếu, gồm 10 đoạn, mỗi đoạn có tựa đề riêng. Một bộ phim đồ sộ. Giám đốc sản xuất là Ken Burns, cùng với người cộng sự Lynn Novick, đã tới Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới để làm phim và phỏng vấn 84 nhân chứng ở mọi phía. Khoảng 20 sử gia và học giả đã hợp tác làm bộ phim. Hơn 25 ngàn bức ảnh vô số tài liệu được sử dụng lần đầu.
Bộ phim được mở đầu với Đoạn  “Déjà Vu”, đã lội ngược dòng lịch sử Việt Nam từ khi Pháp chiếm Việt Nam (1858) tới năm 1961, khi ông Ngô Đình Diệm thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam VN với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ.

Đoạn 2, “Riding the Tiger”, (1961-1963).
Đoạn 3, “The River Styx”, (01/1964-12/1965).
Đoạn 4, “Resolve”, (01/1966-06/1967).
Đoạn 5, “This Is What We Do”, (07/1967-12/1967).
Đoạn 6, “Things Fall Apart”, (01/1968-05/1968).
Đoạn 7, “The Veneer of Civilization”, (06/1968-05/1969).
Đoạn 8, “The History of the World”, (04/1969-05/1970).
Đoạn 9, “A Disrespectful Loyalty”, (05/1970-03/1973).
Đoạn 10, “The Weight of Memory”, (03/1973-về sau).

Mặc dù chưa xem cả 10 đoạn, khán giả người Việt cũng không thấy có gì mới lạ, so với bộ phim “Vietnam: A Television History” hơn 30 năm trước, dài 13 giờ chiếu, cũng do PBS sản xuất, mà một người Mỹ lương thiện, Tiến sĩ James Banerian, đã phải viết cuốn sách hơn 300 trang, cuốn “Losers are Pirates” (Thua Là Giặc), để phản bác, nêu ra những điều gian trá của bộ phim được gọi là “lịch sử”.

“The Vietnam War” mới khởi chiếu vào giữa tháng 9 trên PBS, vài nước Âu Châu, và đưa lên mạng. Cho tới nay đã có vài ‎ý kiến được nói lên.

“42 năm qua, nhà làm phim về chiến tranh Việt Nam vẫn có cái nhìn lệch lạc, không nói lên đúng diễn tiến của lịch sử. Tuy họ thiếu trung thực, nhưng chúng ta vẫn phải ngả mũ kính trọng và cảm ơn những người lính Mỹ và người lính VNCH đã sát cánh hy sinh mạng sống của mình báo vệ tự do cho thế giới và Miền Nam Việt Nam. ‘The Việt Nam War’ đã không đề cập đến Lập Pháp Hoa Kỳ đã trói tay Hành Pháp, để nước Mỹ mang tiếng phản bội đồng minh, tạo tiếng xấu cho quân đội Mỹ là đã thất bại ở Việt Nam.” (Đinh Hùng Cường)

“Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem.” (Nguyễn Ngọc Sẵng)

The Vietnam War không là bộ phim ‘one size fits all’. Nó dành cho tất cả nhưng không thỏa mãn được tất cả. Bởi vì, cuộc chiến đã để lại một gánh nặng tâm lý cực kỳ khủng khiếp. Nó chạm đến tổn thương lẫn kiêu hãnh. Nó khơi gợi vinh quang và nhục nhã, và sự lẫn lộn giữa vinh quang và nhục nhã. Nó dắt người ta đến ranh giới của đúng và sai, và sự lẫn lộn của đúng và sai. Chỉ bước thêm một bước nhỏ qua lằn ranh, người ta sẽ thấy họ dường như đã sai mà khi lùi lại thì họ lại thấy như là mình đúng. Cái tâm lý đó đè nặng lên lương tri đối với những người có lương tri khi nhìn lại ý nghĩa của việc tham chiến, và với cả những kẻ hậu thế quan sát cuộc chiến như một phần di sản khốc liệt của dân tộc.” (Mạnh Kim)
Thật ra, “The Vietnam War” là một bộ phim do người Mỹ làm cho khán giả người  Mỹ xem để cố “giải ảo”, cố làm ra vẻ khách quan, trung thực, đã đem vào phim thật nhiều chi tiết, thật nhiều nhân chứng, kể cả những chi tiết không cần thiết và vô giá trị như những khúc phim “tài liệu” do CSBV thực hiện với mục đích tuyên truyền, những nhân chứng vô danh ở mọi phía nói những câu tầm thường, vô nghĩa.
Năm ngày trước khi PBS chiếu đoạn mở đầu của “The Vietnam War”, nhật báo Washington Times có đăng một bài của Eric Althoff viết về bộ phim này, trong đó Burns đã nói như sau:

“Điều mà chúng tôi đã bỏ ra mười năm nay để làm là đào xới, khai quật toàn bộ câu chuyện về Việt Nam, do đó chúng tôi đã nhận ra rằng nhiều sự thật có thể cùng hiện hữu. Dù là một anh lính chiến Mỹ tin tưởng nhiệt thành vào sứ mạng của mình, hay người lính không tin điều đó nhưng đã đi (tham chiến) là vì bị động viên, hay những người ở nhà tranh cãi về sự khôn ngoan và đạo đức của Hòa Kỳ trong việc can dự vào một cuộc tranh chấp ở phương xa như vậy.
“Nếu anh biết ngay từ lúc khởi đầu (can dự vào cuộc chiến ấy) là sai và anh nói như thế, có chỗ cho anh trong bộ phim này. Nếu anh nghĩ chúng ta vẫn nên ở lại đó chiến đấu chống lại cộng sản, cũng có chỗ cho anh trong bộ phim của chúng tôi.”

Vì chủ trương như vậy nên bộ phim của Burns và Novick là một tổng hợp hổ lốn của đủ mọi thứ, kể cả những thứ chỉ đáng vứt vào sọt rác, trong đó có những sản phẩm của truyền thông Mỹ mà ngày nay đã bị buộc tội là thủ phạm đã gây ra cái chết của Tự Do tại Việt Nam năm 1975, chứ không phải vì Hoa K‎ỳ đã sai lầm, hay vì Quân đội VNCH “không chịu chiến đấu”, hay vì cộng sản VN có chính nghĩa và chiến đấu ngoan cường tài giỏi dưới sự thống lãnh của “thiên tài quân sự” Võ Nguyên Giáp (như đã được báo chí phương Tây tôn vinh).
Burns đã biện hộ cho truyền thông dòng chính Mỹ rằng trong khi nhãn hiệu “tin ngụy tạo” (fake news) được dán một cách dễ dàng cho những câu chuyện mà người tiêu thụ không thích, “tôi tin rằng Chiến Tranh Việt Nam  là ‘giờ đẹp nhất’ (finest hour) của truyền thông (Mỹ) khi họ đã dứt khoát giúp công chúng Mỹ biết chuyện gì đang diễn ra ở nơi cách xa nửa vòng thế giới.”

“Chúng ta gọi là ‘tin ngụy tạo’ những gì chúng ta không đồng ý với nhưng đó lại là sự thật. Chúng tôi không muốn nói rằng chúng ta sẽ sửa đổi ngày tháng của cuộc Tổng công kích Tết (Mậu Thân); đó có lẽ là ‘tin ngụy tạo’.
“Chúng ta sống trong một nền văn hóa truyền thông 2 chieu luôn luôn là trạng thái đỏ/trạng thái xanh,  và nếu chúng ta không thể thoát ra khỏi điều đó, chúng ta không thể là một quốc gia.”

Phải chăng Burns muốn nói về sự chia rẽ trong công luận Mỹ và ông ta cùng với Novick muốn cống hiến một bộ phim mà từ đó công luận Mỹ sẽ rút tỉa được những bài học về cuộc chiến tại Việt Nam?
Vậy thì những bài học nào đã được rút tỉa từ bộ phim được gọi là tài liệu (documentary) của Burns và Novick? Burns nói:
“Chúng ta có thể rút tỉa những bài học từ cuộc chiến ấy trong nhiều cách tích cực bằng học hỏi làm cách nào để nói chuyện với nhau và để đừng nói người khác là sai. Khi bạn đối xử với người khác một cách tôn kính, bạn có khả năng thoát ra khỏi sự đơn giản của ý niệm ai đúng ai sai, ai phải ai trái.”

“Ngay cả vào năm 1965, những người chống đối (tại Mỹ) đã viết trên biểu ngữ “Hãy đưa lính Mỹ về nhà!” (Bring the GIs homes). Đã có những khu vực riêng biệt cho sự phản đối, đặc biệt là sau vụ Mỹ Lai.. Và vì vậy chúng ta đã tin rằng mọi người lính (khi trở về) đều bị phun nước bọt, mọi người lính đều bị gọi là ‘tên giết trẻ em’ (baby killer), và sự thật điều ấy đã không xảy ra.”
Burns và Novick hy vọng bộ phim của họ sẽ giúp dân Mỹ sớm hàn gắn vết thương Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra một cách chậm chạp.
Nhiều người không tin như vậy, nhưng không thể không đồng ý với Burns: “Chúng ta học được một điều từ cuộc chiến Việt Nam. Sẽ không bao giờ nữa chúng ta buộc tội những chiến binh của chúng ta.”

Vậy thì buộc tội ai trong bi kịch Việt Nam?
Thật ra, trong những bên tham dự vào cuộc Chiến tranh Việt Nam (1960-1975) chỉ có Hoa Kỳ là chia rẽ và tranh cãi, thậm chí kéo dài cho tới hơn nửa thế kỷ sau cũng chưa biết tới bao giờ mới chấm dứt.
Cộng sản Việt Nam, kẻ đã xua quân xâm lược Việt Nam Cộng Hòa gây ra cuộc chiến tranh tại miền Nam VN không chia rẽ, tranh cãi. Hay không thể chia rẽ, tranh cãi dưới một chế độ cộng sản, độc tài đảng trị.
Việt Nam Cộng Hòa (một quốc gia có chủ quyền, được hơn 100 nước nhìn nhận), nạn nhân của cuộc xâm lăng do CSBV phát động, cũng không chia rẽ, tranh cãi. Trong cuộc chiến đấu tự vệ, VNCH đã phải chống lại hai mặt trận: mặt trận quân sự mặt trận hậu phương với sự quấy rối do CSBV xúi dục, giật dây.
Có một điệp khúc bất công thường được nghe tại Mỹ là “Quân đội VNCH không chịu chiến đấu”. “Không chịu chiến đấu” mà số lính tử trận của QLVNCH gấp sáu lần Quân đội Mỹ, chưa kể gần hai triệu thương binh, và quân đội ấy đã chiến đấu để bảo vệ miền Nam VN trong suốt 20 năm, mười năm trước khi quân Mỹ tham chiến (1955-1965) và tiếp tục chiến đấu sau khi quân Mỹ rút về nước và bị cúp viện trợ.
Tiến sĩ James Banerian có l‎ý khi đặt tên cho cuốn sách của ông là “Losers Are Pirates” để bênh vực VNCH và Quân đội VNCH, chống lại bộ phim “Vietnam: A Television History” hơn 30 năm trước. Bên chiến bại đã bị gán cho đủ thứ tội, kể cả giặc cướp.
Năm nay, 2017, “The Vietnam War”, đồ sộ hơn và có vẻ “khách quan” hơn, nhưng vẫn không nhìn ra đâu là nguồn gốc của cuộc chiến tranh ấy, đâu là chính và đâu là tà.
Hai ngày sau khi “The Vietnam War” được khởi chiếu trên PBS, ngày 19.9.2017 trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Donald Trump đã nói, “nói” chứ không phải “đọc”, trong 41 phút về vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới, trong đó có đoạn sau đây:

“Nước Mỹ làm nhiều hơn là nói cho những giá trị được xiển dương trong Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc. Công dân của nước chúng tôi đã trả cái giá bằng sinh mạng để bảo vệ tự do của chúng tôi và tự do của nhiều quốc gia có đại diện tại đại hội trường này. Nhiệt tình của nước Mỹ được đo lường trên chiến trường nơi những thanh niên nam và nữ của chúng tôi đã chiến đấu bên cạnh những đồng minh của chúng tôi. Từ những bờ biển của Âu Châu tới các sa mạc tại Trung Đông tới rừng rậm Á Châu, một thành tích vĩnh cửu cho bản chất người Mỹ là ngay cả sau khi chúng tôi và đồng minh của chúng tôi xuất hiện trong chiến thắng từ những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử, chúng tôi đã không tìm cách bành trướng lãnh thổ hay chống lại và áp đặt lối sống của chúng tôi lên người khác. Đối lại, chúng tôi đã giúp tạo dựng lên những định chế như cái này (LHQ) để bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh, và thịnh vượng cho tất cả mọi người. Cho những quốc gia khác biệt trên thế giới, đây là hy vọng của chúng tôi.”

Đoạn trên đây đáng được dùng để nhắc nhở những người làm phim “The Vietnam War”. Và, những cựu công dân và cựu quân nhân VNCH có nghe đoạn trên đây trong bài nói của ông Trump chắc không tránh khỏi buồn và tự hỏi: “Tại sao đại diện cho Việt Nam tại Đại Hội Đồng LHQ không phải là VNCH, đồng minh của Hoa Kỳ và đã từng sát cánh bên nhau chiến đấu cho lý tưởng Tự Do?”
Ký Thiệt
Inline images 1