“Tôi đang khép cánh cửa cuộc đời binh nghiệp 52 năm. Khi tôi gia nhập quân đội trước khúc quanh thế kỷ, mọi hy vọng và ước mơ thơ ấu đã thành tựu. Thế giới đã đổi thay bao phen kể từ khi tôi tuyên thệ trên vũ đình trường West Point, và những giấc mộng và uớc mơ đã tan biến từ lâu. Nhưng tôi vẫn còn nhớ điệp khúc một bài ca quen thuộc nhất trong doanh trại của thời đó được hát một cách kiêu hùng
“Nguời lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai với năm tháng”. Và giống như nguời lính già của câu hát đó, tôi đang khép cửa cuộc đời binh nghiệp và tàn phai, và nguời lính già đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ mà Thuợng Ðế đã soi sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin chào tạm biệt mọi nguời” (I am closing my fifty two years of military service. When I joined the army before the turn of the century, it was the fulfillement of my boyish hopes and dreams. The world has turned over many times since I took the oath on the plain at West Point, and the hopes and dreams have long since vanished. But I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day which proclaimed most proudly that - Old soldiers never die, they just fade aways. And like the old soldier of that ballad I now close my military career and just fade away, and old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty. Goodbye!)
Cả luỡng viện Quốc Hội đều đứng dậy vổ tay hoan nghênh, và một số mắt hoen lệ.
Tất  cả người lính già đều chết, nhưng sẽ chết trong bóng tối như mọi nguời,  chỉ có những nguời lính già vinh với lính, nhục với lính, không bỏ rơi  lính, không chạy trước lính, và giữ trọn phuơng châm “Nhiệm Vụ, Danh Dự,  Tổ Quốc” như tướng MacArthur mới đuợc gọi là nguời Lính Già Không Bao  Giờ Chết. Ðó là lý do tại sao tác giả cuốn sách này đã dùng câu hát  Nguời Lính Gìa Không Bao Giờ Chết để gọi tướng Douglas MacArthur. 
hay chuyện của Tuớng Douglas MacArthur 
   Nguời  Lính Gìa Không Bao Giờ Chết là câu hát của nguời lính Mỹ trong doanh  trại thời truớc, nhưng khi câu hát này đuợc thốt ra từ Tuớng Douglas  MacArthur khi ông đọc bài điều trần trước luỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ sau  khi bị cất chức Tư lịnh tối cao quân đội Hoa kỳ ở Ðông Nam Á và các lực  luợng Liên Hiệp Quốc trong cuộc chiến tranh Nam - Bắc Hàn năm 1950, thì  trở thành bất hủ. Ông là một trong những vị tuớng 5 sao của Hoa Kỳ đuợc  nhiều huy chuơng chiến trường nhất, và ông là một thiên tài quân sự  đuợc xem là một Caesar. Nhưng trong một phương diện khác, ông gây ra  nhiều ý kiến chống đối, đó là lý do tại sao ông không đuợc bầu làm tổng  thống Hoa Kỳ, mà chỉ làm một nguời Lính Già Không Bao Giờ Chết.
Ông  sinh truởng trong một gia đình võ nghiệp. Cha ông là tướng chỉ huy lực  lượng Hoa Kỳ chiếm đóng Phi luật Tân sau cuộc chiến tranh Hoa Kỳ -Tây  Ban Nha 1898. Lúc nhỏ sống trong doanh trại, ông được dự những buổi chào  cờ và diễn hành quân cách, nên nuôi giấc mộng làm lính. Ông đuợc gởi  học truờng thiếu sinh quân, và lớn lên đuợc thâu nhân vào truờng West Point.  Sau khi ra truờng vào năm 1904, ông đuợc gắn cấp thiếu úy ngành công  binh, và phục vụ ở Phi Luật Tân để xây cất đường sá và bến tàu, rồi làm  sĩ quan tùy viên cho cha. Nhờ đó ông đuợc tháp tùng theo cha trong các  cuộc thăm viếng Nhật Bản, Trung Hoa và Singapore, và có nhận định sớm là  tương lai quyền lợi Hoa Kỳ không phải ở Au Châu mà là ở các nuớc Á Châu  đang giành lại quyền độc lập.
Trở  về Hoa Kỳ ông tham gia công trình kênh Panama, phụ trách xây cất San  Francisco sau vụ động đất 1906, tham gia trận chiến tranh với Mexico năm  1913. Khi Thế chiến 1 bùng nổ, ông là Ðại tá trong đoàn quân Viễn chinh  Hoa Kỳ sang chiến đấu ở Pháp năm 1917. Mặc dù là sĩ quan tham mưu sư  đoàn, ông thích cầm quân ra trận. Ông là một sĩ quan gan dạ trong các  trận đẩm máu nhất của mặt trận miền Tây (Pháp, Bỉ va Hoa Lan) ông được  gắn 7 anh dũng bội tinh Silver Star, một DSC (Distinguished Service  Cross), một DSM (Distinguished Service Medal) và một Legion d  honneur(Bắc đẩu bội tinh) của quân đội Pháp, và đuợc thăng cấp Tuớng một  sao.
Cũng  như các danh tuớng Mỹ khác, ông có một lối ăn mặc đặc biệt, không gài  cúc cổ áo, không mang cà vạt, và thích đội chiếc nón két bàu nhàu thêu  kim tuyến trông rất tài tử.
Ông  được cử làm Chỉ Huy Trưởng trường West Point năm 1919 lúc 39 tuổi, là  một trong nhũng vị chỉ huy truởng trẻ nhất. Ông thực hiện nhiều cải cách  sâu rộng như nâng cao tinh thần thể thao, mang môn khiêu vũ vào chuơng  trình, khuyến khích SVSQ đọc báo hàng ngày để tiếp xúc với thế giới bên  ngoài. Về văn hóa, ông thấy người lính tương lai không còn là hạng  chuyên nghiệp nữa mà xuất thân từ các tầng lớp xã hội, nên người sĩ quan  không thể dùng kỷ luật khắc khe và hình phạt nặng nề để chỉ huy mà phải  có tầm hiểu biết rộng rãi về tâm lý, lịch sử, xã hội và những mối tuơng  quan trên thế giới, nên khoa Nhân văn (Sử, Văn chuơng) và Khoa học xã  hội (Xã hội, Luật, Kinh Tế) được mang vào, và các giảng viên được gởi  đến các đại học bên ngoài hàng năm một tháng để trau dồi kiến thức. Nhờ  vậy văn bằng tốt nghiệp West Point đuợc Quốc hội HK biểu quyết chấp nhận có giá trị ngang hàng với văn bằng cử nhân ở các đại học dân sự.
   Năm  1922 ông được cử trở lại Phi Luật Tân chỉ huy lực luợng quân sự HK ở  Manila trong 3 năm, khi trở về HK ông được thăng cấp Tuớng 2 sao chỉ huy  cấp quân đoàn, rồi làm việc tại Bộ Quốc phòng.
Năm  1930 ông được cử làm Tổng Tham mưu trưởng quân lực HK, và được mang cấp  tuớng 4 sao giả định theo chức vụ. Ông thực hiện nhiều công tác quan  trọng, như ra Quốc Hội tranh đấu đòi tăng ngân sách quốc phòng, gia tăng  quân đội, lập ra trường tham mưu trung cấp Leavenworth giúp sĩ quan trẻ  có cơ hội tiến xa trên đường võ nghiệp, lập ra Ðại học quân sự để giúp  cấp tá lãnh đạo sau này. Nhờ vậy khi Ðại chiến 2 bùng nổ, quân đôi HK có  đủ cấp sĩ quan lãnh đạo.
Khi  TT Roosevelt đắc cử năm 1930, chính sách New Deal đuợc mang ra để giải  quyết nền kinh tế khủng hoảng. Một tổ chức gọi là Civilian Conservation  Corps thu hút hơn 300 ngàn người trẻ không có việc để thực hiện những  chương trình như xây trường học, tu bổ công ốc, xẻ đường, khơi sông và  trồng rừng. Chương trình này gặp khó khăn buớc đầu vì tất cả đoàn viên  đều là dân thất nghiệp luời biếng và thiếu kỷ luật, nên ông được giao  phó nhiệm vụ này. Nhờ áp dụng tổ chức quân đội và dùng sĩ quan điều  hành, ông đã thực hiện kế chưong trình này tốt đẹp.
Năm  1934 nhiệm kỳ Tham mưu truởng đáo hạn, ông vận động ở lại để có thể  thực hiện nhiều chương trình khác, nhưng không được. Trong lúc đang khó  xử, vì ông sẽ trở lại cấp cũ, thì phái đoàn chính phủ Phi Luật Tân sang  Washington nhờ chính phủ HK giới thiệu một vị cố vấn quân sự để thành  lập một đội quân chuẩn bị cho một nuớc PLT sắp được HK trao lại độc lập  vào năm 1946. Nếu nhận chức vụ này ông phải rời quân đội. Ðó là một khổ  tâm của ông, mặc dù ông hưởng đuợc nhiều quyền lợi lớn. Cuối cùng buộc  lòng, ông chấp nhận, và chính phủ đặc phái Ðại tá Eisenhower đi theo làm  phụ tá cho ông.
Vào  năm 1940, Ðế quốc Nhật Bản đang bành truớng thế lực trong vùng Ðông Nam  Á. Vì thời gian cấp bách và ngân sách eo hẹp nên ông phỏng theo Thụy sĩ  lập một đạo quân trừ bị, nghĩa là chỉ duy trì một đạo quân hiện dịch 40  ngàn, còn ngoài ra sẽ đào tạo một đạo quân trừ bị khoảng 200 ngàn nguời  trong thời gian 6 năm, khi bình thuờng ở nhà, khi có chiến tranh sẽ trở  lại nhập ngũ. Ðó là một kế hoạch sai lầm, vì đạo quân này ô hợp tan rả  nhanh chóng khi quân Nhật đổ lộ lên Luzon vào năm 1941.
Sau  khi chiếm Triều Tiên, Mãn Châu, miền Bắc Trung Hoa, các tỉnh Thuợng  Hải, Bắc Kinh và Ðài Loan, Nhật Bản thấy không đủ sức để chiếm nốt Trung  Hoa, nên ngừng lại và quay ra bành trướng trong vùng Thái Bình Duơng để  chiếm các tài nguyên quan trọng cần cho bộ máy chiến tranh như dầu hỏa ở  Nam Duơng, cao su ở Mã Lai và hầm mỏ ở Úc. Khởi sự Nhật đưa quân vào  Ðông Duơng năm 1940 với sự đồng ý của Pháp để đánh chiếm Mã Lai,  Singapore, và tiếp tục đổ quân chiếm các quần đảo Marinas, Solomons và  Papua New Guinea để xâm chiếm Úc. Truớc tình hình nghiêm trong, Bộ Tổng  Tham mưu HK gọi ông trở lại quân đội và thăng ông cấp Tuớng 3 sao vào  tháng 7/41 làm tư lệnh quân đội HK và PLT.
Khi quân Nhật thình lình oanh tạc Pearl Harbour ngày 8/12/41, ông đuợc thăng lên tuớng 4 sao chỉ huy tất cả lực luợng HK ở Thái Bình Duơng.
   Lực  luợng HK ở PLT chỉ gồm có 3 sư đoàn với quân số không đầy đủ duới quyền  chỉ huy của tuớng Wainwright, ông yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu (TTM) gởi  thêm quân và vũ khí, nhưng không đuợc đáp ứng, vì ưu tiên dành cho mặt  trận Âu Châu. Nên khi quân Nhật từ Ðài Loan đổ bộ 200,000 quân cùng với  hàng trăm phi cơ lên bán đảo Luzon phía Bắc PLT thì HK không chống đỡ  nỗi, quân đội HK rút về cố thủ ở bán đảo Battan cách Manila vài chục dặm  về phía Bắc, nhưng Battan thất thủ, ông và và bộ tham mưu rời Manila  rút ra đảo Corregidor ngoài vịnh Manila. Ông cuơng quyết cố thủ để chờ  tiếp viện. Bộ TTM duới quyền tướng Marshall yêu cầu ông rời hòn đảo này để qua Úc lập lực lượng phản công, ông từ  chối dù phải bỏ mạng. Tuớng Marshall lo ngại nếu tuớng MacArthur bị bắt  sống thì đó là một sự nhục nhã đối với cường quốc HK và làm mất tinh  thần quân đôi HK trên khắp thế giới, nên ra lệnh ông phải rời. Hải quân  đuợc lệnh phái tàu đến đưa ông và ban tham mưu xuống đảo Midanao phía  Nam PLT, và từ đó không quân đưa ông sang Darwin,  thành phố bắc Úc. Ông cảm thấy hổ thẹn như kẻ đào ngũ bỏ rơi quân đội,  nhưng ông hứa, “I shall return.” Ðó là câu nói bất hủ đã dày vò tâm hồn  ông ngày đêm cho đến khi giải phóng đuợc PLT mới thôi. Khi ông vừa đến Darwin thì không quân Nhật dội bom xuống thành phố này. Khi xuống Melbourne ông được thủ tuớng Úc John Curtin và dân chúng thành phố này đón mừng  như một vị anh hùng. Trong khi đó ở HK bộ máy tuyên truyền ca ngợi ông  để nâng cao tinh thần quân đội, các hội hè, các đoàn thể và các truờng  học đều treo cờ và hình ảnh của ông.
Ông  đuợc cử làm chỉ huy lực luợng HK và các nuớc Ðồng Minh ở Viễn Ðông,  nhưng ông khổ tâm vì quân lực HK chưa có mặt trên đất Úc. Trong khi đó  nuớc Úc đang bao trùm trong một bầu không khí bại trận đến nơi, vì Úc  đang bị bỏ ngõ, quân lực Úc gồm 4 sư đoàn thiện chiến đang ở mặt trận  Bắc Phi, Hải quân Úc đang ở Ðia Trung Hải và không lực Úc đang ở Trung  Ðông, nên dân chúng lo sợ quân Nhật có thể xuất hiện bất cứ ở đâu và bất  cứ lúc nào.
Sự có mặt của ông mang lại một niềm hy vọng lớn cho dân Úc. Ông đặt bản doanh tại thành phố Brisbane,  ngụ tại khách sạn Lennon và làm việc tại tòa nhà AMP. Khi mặt trận Âu  Châu bắt đầu nghiêng về phe Ðồng Minh, Tổng Tham Mưu Truởng Hoa Kỳ mới  bắt đầu nghĩ đến chiến truờng Viễn Ðông, quân đoàn 8 do tuớng  Eichelberger và nhiều phi đoàn vận tải và chiến đấu đuợc gởi sang Úc.
Chiến  luợc của Nhật là một mặt chiếm các quần đảo Solomons, Papua Guinea, và  một mặt khác diệt tan hạm đội HK, cắt đứt đuờng hải vận từ HK, tức là  làm bá chủ được vùng Thai Bình Duơng, và vấn đề xâm chiếm Úc không còn  khó khăn nữa, nên Nhật đã oanh tại Trân Châu Cảng ngày 8/12/41 hòng tiêu  diệt hạm đội 7 của HK, nhưng không thành công, nên qua năm sau, Đô đốc  Yomamoto dẫn hạm đội hùng hậu với 4 hàng không mẫu hạm chứa trên hàng  trăm phi cơ quyết tâm tiêu diệt hạm đội HK. Nhờ bắt được tín hiệu mật  của Nhật, Hải quân HK phát hiện sớm và đánh tan đoàn chiến hạm Nhật gần  đảo Midway. Trận hải chiến này đã xoay chiều mặt trận Thái Bình Dương.  Trong khi đó, tướng MacArthur bắt đầu phản công những quần đảo. Những  trận đánh chiếm những căn cứ Nhât trên các quần đảo này là những trận  đẫm máu đắt giá với 1 đổi 2, bởi vì quân Nhật cố thủ trong những hầm hố  kiên cố. 
Sau khi chiếm đuợc đảo Solomons, HK va Úc bắt đầu phản công New Guinea.  Khi các căn cứ lớn như Rabaul, Lae, Gona và Buna lọt vào tay HK, và  quân Úc đánh tan đuợc quân Nhật ở con đuờng mòn Kokoda phía Bắc thị trấn  Moresby của Papua New Guinea thì Đồng Minh coi như làm chủ tình hình  quần đảo này, và tuớng MacAthur tuyên bố với dân Úc mối đe doa Nhật  không còn nữa.
Bây  giờ tướng MacArthur mới nghĩ đến kế hoạch giải phóng PLT như lời hứa,  nhưng các tư lệnh Hải quân và Không quân muốn bỏ PLT mà đánh thẳng vào  Nhật. TT Roosevelt bay sang Hawai họp với các tuớng vùng Viễn Ðông để  vạch một kế hoạch phản công. Ông thuyết phục TT Roosevelt phải giải phóng PLT.
Ông được thăng cấp tuớng 5 sao ngày 18/12/44 chỉ huy các lực luợng Viễn Ðông. Vào năm 1944, quân Ðức bị đẩy lui khắp  các mặt trận Âu Châu, nên mặt trận Viễn Ðông đươc tăng cuờng. Cuộc đổ  bộ lên đảo Leyte phía Ðông PLT gồm một hạm đội trên 1000 chiếc và hàng trăm máy bay hùng hậu chẳng kém trận Normandy.  Tuớng MacArthur lội nuớc từ chiếc tàu đổ bộ buớc lên bãi biển, đầu đội  chiếc nón két tài tử và ngậm ông vố là hình ảnh lịch sử khó quên, và từ  đó quân Mỹ tiến chiếm Luzon và giải phóng Manila vào tháng 2, 1945.
Hải  quân tiến chiếm các đảo chiến lược như Saipan, Iwo Jima và cuối cùng là  Okinawa gần Nhật. Ðây là một trận đẩm máu nhất, cả 2 bên đều thiệt hại  nặng, HK phải trả gía 50 ngàn quân mới chiếm được hòn đảo này.
Kế  hoạch đánh thẳng vào nội địa Nhật bắt đầu, hàng trăm pháo đài bay B.29  từ các căn cứ trên Thái Bình Dương hàng ngày dội hàng ngàn tấn bom xuống  các thành phô kỷ nghệ Nhật, nhưng Nhật chưa chịu đầu hàng. Căn cứ vào  mức thiệt hại nặng ở trận Okinawa, TT Truman không muốn HK phí tổn và  kéo dài cuộc chiến tranh, nên hạ lệnh thả 2 qủa bom mguyên tử xuống  Hiroshima ngày 6/8 và Nagazaki ngày 9/8 khiến Nhật đầu hàng vô điều kiện  vào ngày 15/8/45.
Tướng  MacArthur được cử làm Chỉ Huy Tôi Cao các lực luợng Ðồng Minh chiếm  đóng Nhật. Lễ đầu hàng đuợc diễn ra trên chiến hạm Missouri, tướng  MacArthur oai phong với chiếc nón két phong suơng, cổ không thắt cà vạt  như thuờng lệ chủ tọa buổi lễ.
Khi  quân đội chiếm đóng HK đặt bộ chỉ huy trên đất Nhật, ai cũng tưởng  tướng MacArthur sẽ thi hành một chính sách trả thù không nuơng tay đối  với sự tàn ác của quân đội Nhật, nhưng nguợc lại ông là một nhà chính  trị khôn ngoan. 
Lúc  đầu ông định thiết lập chế độ quân quản và lập tòa án quân sự, nhưng  thủ tuớng Yokoda cam kết sẽ thi hành nghiêm chỉnh văn kiện ký kết, nên  ông bỏ ý định này, và quả nhiên 3 tháng sau tất cả vũ khí, máy bay, tàu  chiến đều được giao trọn cho lực luợng chiếm đóng. Một vài nuớc đồng  minh yêu cầu tháo gỡ may móc kỷ nghệ của Nhật để đến bù thiệt hại chiến  tranh, và bắt xử Nhật Hoàng về tội ác chiến tranh, ông từ chối, bởi vì  bây giờ ông không cầm quân nữa, mà đang đối phó với nền kỷ nghệ sụp đổ,  nạn thất nghiệp và các đảng chính trị thiên tả của Nhật. Cho nên vấn đề  cấp bách là phục hồi nền kinh tế Nhật để gỉai quyết nạn thất nghiệp trầm  trọng do hàng triệu quân Nhật giải ngũ, và dân chủ hoá một nước quân  phiệt độc tài.
Ông  có công lớn đưa ra một bản dự thảo Hiến Phap Nhật và được Quốc Hội Nhật  chấp nhận với những nguyen tắc dân chủ như: biến nước Nhật quân chủ  chuyên chế quân phiệt thành một nước quân chủ lập hiến, biến nền kinh tế  chỉ huy thành kinh tế thị trường, bỏ chế độ trợ cấp Thần đạo tôn sùng  Nhật Hoàng, thành lập các nghiệp đoàn lao động, cải cách ruộng đất, phá  bỏ những tổ hợp công ty gia đình phục vụ cho bộ máy chiến tranh...
Mặc  dù HK có viện trợ cho Nhật để tái thiêt nền kinh tế, nhưng Nhật không  hưởng đuợc chương trình viện trợ Marshall như ở Âu Châu, nền kinh tế  Nhật vẫn thấp kém, nên sau 3 năm kinh tế với các quốc gia khác. Lúc này  ông nghĩ đến hoà bình hơn là chiến tranh, nên ông bị công kích là đã bỏ  quên vấn đề quân sự.
Ngày  25/6/50 quân Bắc Hàn đột nhiên xua quân sang vĩ tuyến 38 chia đôi Nam  Bắc Hàn, quan Nam Hàn tháo chạy xuống Pusan, thị trấn cực Nam của Nam  Hàn, HK với quân số ít cũng không ngăn chận đuợc. Ông được cử làm tư  lệnh tối cao quân đội các nước Liên Hiệp Quốc. Lực  luợng HK chiếm đóng ở Nhật và Viễn Ðông được gởi sang Nam Hàn. Nhưng  muốn đẩy lui quân Băc Hàn trở lại vĩ tuyên 38, tướng MacArtur tính HK  phải tổn thất ít nhất trên một trăm ngàn quân, nên ông nghĩ ra một chiến  thuật táo bạo, là bỏ mặt trận phía Nam mà đánh tập hậu ở hải cảng  Inchon gần vỹ tuyến 38, cách Hán Thành 20 dặm về huớng Tây Nam và cách  Pusan 130 dặm để cắt đứt nguồn tiếp vận lương thực, vũ khí và binh lính  Bắc Hàn. Ông gởi kế họach về TTM và yêu cầu tăng viện một sư đoàn Thủy  quân lục chiến. TTM không tin tuởng kế hoạch này, nên cử một phái đoàn  gồm 3 tuớng tư lệnh lục, hải, không quân và tướng chỉ huy quân đoàn TQLC  sang Tokyo để trình bày những điểm bất lợi về địa thế, thời tiết và tiếp  vận mà nguyên tắc chiến thuật không cho phép. Ông bình tĩnh trả lời  từng điểm va đánh tan mọi sự hồ nghi của ban tham mưu trung uơng, và kết  luận: “Ðây là một ván cờ khó khăn, 1 đối với 5000, nhưng tôi chấp nhận.  Nếu như thất bại tôi lãnh chịu trách nhiệm, và tôi sẽ cùng binh sĩ  chiến đấu rút lui, còn qúy vị không mất gì cả, danh tiếng của tôi sẽ bị  chôn vùi. Tôi chỉ xin qúy vị cấp cho tôi một sư đoàn TQLC để đánh tan  quân địch”. Ban Tham Mưu không còn lý do ngăn trở và đồng ý.
Ðến ngày 15/9/50, tướng MacArthur đứng trên chiến hạm với tướng chỉ huy TTQC tiến về hải cảng Inchon. Bờ biển Inchon bình thuờng rất cạn, nuớc triều mỗi ngày lên xuống 2 lần là những lúc  tàu có thể vào bờ. Khi cơn triều thứ nhất dâng lên vào lúc 8 giờ sáng,  một đơn vị TQLC chiếm hòn đảo nhỏ trước mặt hải cảng Inchon chẳng gặp khó khăn, và khi cơn triều thứ nhì lên cách 8 giờ sau, thì cả  sư đoàn trên các tàu đổ bộ tiến vào bờ mà chẳng gặp sự kháng cự đáng  kể. Bị yếu tố bất ngờ Bắc Hàn không chống cự được, trong khi đó lực  luợng HK từ Pusan đánh lên ở thế trên búa duới đe, Bắc Hàn tan rả và  chạy trở lại vỹ tuyến 38.
Vói  chiến thuật lừng lẫy này MacArtur trở thành một thiên tài quân sự, và  tên tuổi đi vào lịch sử. Các danh tuớng từ cổ chí kim và từ Ðông sang  Tây thuờng hay ỷ công và bất phục tùng. Tuớng MacArthur cũng không thóat  khỏi thông lệ đó. Ðiều này có một ảnh huởng tai hại cho tham vọng chính  trị của ông về sau.
Lần  thứ nhất khi làm tổng Tham Mưu Truởng quân lực HK dưới thời TT Hoover.  Khi cuộc khủng hoảng kinh tế xẩy ra, hàng trăm ngàn cựu chiến binh mất  việc yêu sách chính phủ trả trợ cấp hưu trí liền thay vì phải chờ đến 60  tuổi, nhưng chính phủ không chấp nhận, nên họ tập họp thành một đoàn  biểu tình gọi là Bonus Marchers kéo về thủ đô Washington chiếm một số  công ốc và gây bạo động, cảnh sát đuợc lệnh dẹp đoàn biểu tình, nhưng  bất lực. Chính phủ giao cho quân đội, tướng MacArthur cởi ngựa điều động  toán quân với súng gắn luỡi lê và lựu đan cay thẳng tay dẹp đoàn biểu  tình, và theo chỉ thị ông phải ngừng lại bên này sông Potomac,  thì ông ra lệnh cho quân đội vượt qua cầu cào sạch lều trại của đoàn  biểu tình. Vụ đàn áp này làm dân chúng công phẩn, và bị báo chí lên án  là một hành động phát xít chà đạp quyền tự do biểu tình của dân chúng  của một nước tự do dân chủ ngay giữa thủ đô HK. Cuộc đàn áp này TT  Hoover đã trả giá bằng cuộc thất bại tranh cử lần 2, còn MacArthur mang  một vết dơ không tẩy xóa đuợc.
Và  lần thứ hai, sau khi dồn quân Bắc Hàn trở lại vỹ tuyến 38, ông được  lệnh của TTM và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vượt qua vĩ tuyến này để  giúp Bắc và Nam Hàn thống nhất theo hoà uớc ký kết giữa các nuớc Ðồng  Minh sau Ðại chiến 2, nhưng không đuợc tiến gần sát ranh giới Trung  cộng. Ðồng thời TT Truman bay sang đảo Wake để gặp MacArthur tỏ sự lo âu  một cuộc tham chiến của Trung cộng.
Giữa  TT truman và tuớng MacArthur vẫn có một sự hiềm khích nhau. Sau khi  Nhật đầu hàng, TT Truman hai lần mời tuớng MacArthur về HK, nhưng  MacArthur thoái thác viện cớ bận rộn công việc, TT Truman tức bực, nhưng  không dám ra lệnh triệu về, vì tuớng MacArthur là một vị anh hùng. Và  sau trận Inchon thì uy danh của ông lấn át tất cả chính khách HK, trong khi uy tín của  TT Truman đang tụt giảm. Khi TT Truman bay sang đảo Wake để gặp tuớng  MacArthur, thì theo nghi lễ tướng MacAthur phải phải bay đến truớc để  đón tiếp một vị Tổng Thống vừa là tổng tư lệnh quân lực HK, thì trái lại  MacAthur ra lệnh cho máy bay hạ cánh cùng lúc với máy bay của TT  Truman, tướng MacArthur vẫn ăn mặc thuờng lệ với chiếc nón phong suơng  va không mang ca vạt khiến TT Truman tức giận trong lòng và chờ một cơ  hội khác để cất chức. Trong buổi nói chuyện MacArthur bỏ ngoài tai mối  lo sợ của vị Tổng Thống, và cả khi TT Truman mời MacArthur ăn cơm chiều  thì MacArthur cũng từ chối.
Sau  trận Inchon, các tuớng trong bộ TTM tự thấy mình nhỏ bé, và không dám  tỏ bày ý kiến khi tướng MacArthur cho quân đội HK tiến sát biên giới  Trung Hoa và cho không quân đánh sập các cây cầu trên sông Yulu giữa  Trung Cọng - Bắc Hàn, và quả nhiên đưa đến sự can thiệp của Trung Cọng.  HK bị đánh tan, và Trung cọng vượt qua vĩ tuyến 38 lại và tiến về Pusan.  Hoa Kỳ phải khó khăn và thiệt hại nặng mới đẩy Trung cọng về lại vĩ  tuyến 38.
Cuộc  chiến tranh dây dưa và tổn thất nặng khiến dân chúng HK đòi chấm dứt  chiến tranh sớm. TT Truman trước sự chống đối của dân chúng đang tìm  cách dàn xếp ngưng chiến với Trung cọng, thì tuớng MacArthur tuyên bố  trên báo chí sẽ dùng không lực dội bom các vùng kỷ nghệ Trung cọng nếu  không chịu rút quân. Lời tuyên bố này đi nguợc đuờng lối của chính phủ,  và chứng tỏ một sự bất phục tùng, nên TT Truman quyết định lấy tư cách  tổng tư lệnh quân lực HK cất chức tuớng MacArthur Tư lệnh các nước LHQ,  tư lệnh các lực luợng Ðồng minh chiếm đóng Nhật và tư lệnh HK ở Viễn  đông và triệu hồi ông về HK 
ngay.
 Khi  dân chúng Nhật nghe tin này, một số đông coi như môt cái tang trong gia  đình. Khi ông rời phi truờng Tokyo, hơn 250 ngàn dân Nhật đứng 2 bên  đuờng tiễn đưa thương tiếc, và khi máy bay đáp xuống sân bay San  Francisco, mặc dù không được loan báo chính thức hơn 500 ngàn nguời tụ  tập đón tiếp, và khi ông xuất hiện chính thức ở thành phố New York, hơn 7  triệu dân chúng đổ ra đường đón tiếp ông.
Trong  bài điều trần truớc luỡng viện Quốc Hội HK, ông đuợc vổ tay hoan nghênh  khiến ông phải ngưng lại nhiều lần mà vị chủ tịch Quốc Hội là Joe  Martin nói ông chưa hề thấy một chính khách nào đuợc hoan nghênh như vậy  suốt 50 năm ở chính truờng.
Ông  có nghệ thuật viết và nói truớc đám đông. Trong phòng làm việc của ông  khi nào cũng có gắn một tấm guơng lớn. Mỗi lần viết xong một bài nói  chuyện, ông thuờng đứng truớc tâm guơng học cách diễn tả trong lời nói  và dáng điệu.
Sau  khi Nhật đầu hàng, danh vọng của ông không ai bằng. Vào cuộc bầu cử  tổng thống năm 1948, một số tổ chức ở HK phát động phong trào “MacAthur  For President”, nhưng ông từ chối. Trong cuộc bầu cử tổng thống 1952  giữa lúc chiến tranh Triều Tiên đang gay go, dân chúng HK đòi hỏi một vị  tổng thống uy tín có thể mang lại hoà bình, là lúc ông đã từ giã quân  đội. Trong kỳ đại hội đảng Cộng Hòa năm 1952 chọn ứng viên ra tranh cử  tổng thống, ông bị đàn em là tướng Eisenhower đánh bại như thông lệ, học  trò hơn thầy, con hơn cha. Tuớng Eisenhower thua tuớng MacArthur 10  tuổi và là khóa đàn em ở West Point.  Khi tuớng MacArthur làm Tổng Tham Mưu truởng, Eisenhower, thường đuợc  gọi thân mật là Ike mới là Trung Tá phục vụ ở bộ TTM. Eisenhower lên  tuớng 5 sao chỉ 2 ngày sau tuớng MacArthur. Ike luôn luôn kính nể vị  niên truởng thiên tài quân sự, nhưng nguợc lại, MacArthur tuy khâm phục  tài tham mưu của đàn em, nhưng không khỏi khinh khi Ike là một vị tuớng  chưa hề có một huy chuơng chiến truờng. Trong đời binh nghiệp, Ike chỉ  cầm quân có 6 tháng, rồi nhảy qua ngành tham mưu, nhưng là một sĩ quan  tham mưu xuất chúng, nên MacArthur có lần đã ghi trong phiếu cá nhân của  Ike: “một sĩ quan tham mưu xuất chúng mà thời chiến tranh sẽ là một vị  tuớng giỏi.”
Trong  binh nghiệp, một vị tướng có thể thất bại đôi lần, nhưng chỉ cần một  trận lừng lẫy thì có thể trở thành bất tử. Tướng MacArthur thất trận ở  PLT, nhưng chỉ một trận Inchon (Triều Tiên) như sấm vang đã đưa ông lên hàng Caesar.
Trong bài điều trần truớc luỡng viện Quốc Hội HK, ông kết thúc như sau:
“Tôi đang khép cánh cửa cuộc đời binh nghiệp 52 năm. Khi tôi gia nhập quân đội trước khúc quanh thế kỷ, mọi hy vọng và ước mơ thơ ấu đã thành tựu. Thế giới đã đổi thay bao phen kể từ khi tôi tuyên thệ trên vũ đình trường West Point, và những giấc mộng và uớc mơ đã tan biến từ lâu. Nhưng tôi vẫn còn nhớ điệp khúc một bài ca quen thuộc nhất trong doanh trại của thời đó được hát một cách kiêu hùng: “Nguời lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai với năm tháng”. Và giống như nguời lính già của câu hát đó, tôi đang khép cửa cuộc đời binh nghiệp và tàn phai, và nguời lính già đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ mà Thuợng Ðế đã soi sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin chào tạm biệt mọi nguời” (I am closing my fifty two years of military service. When I joined the army before the turn of the century, it was the fulfillement of my boyish hopes and dreams. The world has turned over many times since I took the oath on the plain at West Point, and the hopes and dreams have long since vanished. But I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day which proclaimed most proudly that - Old soldiers never die, they just fade aways. And like the old soldier of that ballad I now close my military career and just fade away, and old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty. Goodbye!)
“Tôi đang khép cánh cửa cuộc đời binh nghiệp 52 năm. Khi tôi gia nhập quân đội trước khúc quanh thế kỷ, mọi hy vọng và ước mơ thơ ấu đã thành tựu. Thế giới đã đổi thay bao phen kể từ khi tôi tuyên thệ trên vũ đình trường West Point, và những giấc mộng và uớc mơ đã tan biến từ lâu. Nhưng tôi vẫn còn nhớ điệp khúc một bài ca quen thuộc nhất trong doanh trại của thời đó được hát một cách kiêu hùng: “Nguời lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai với năm tháng”. Và giống như nguời lính già của câu hát đó, tôi đang khép cửa cuộc đời binh nghiệp và tàn phai, và nguời lính già đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ mà Thuợng Ðế đã soi sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin chào tạm biệt mọi nguời” (I am closing my fifty two years of military service. When I joined the army before the turn of the century, it was the fulfillement of my boyish hopes and dreams. The world has turned over many times since I took the oath on the plain at West Point, and the hopes and dreams have long since vanished. But I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day which proclaimed most proudly that - Old soldiers never die, they just fade aways. And like the old soldier of that ballad I now close my military career and just fade away, and old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty. Goodbye!)
Cả luỡng viện Quốc Hội đều đứng dậy vổ tay hoan nghênh, và một số mắt hoen lệ.
   Tất  cả người lính già đều chết, nhưng sẽ chết trong bóng tối như mọi nguời,  chỉ có những nguời lính già vinh với lính, nhục với lính, không bỏ rơi  lính, không chạy trước lính, và giữ trọn phuơng châm “Nhiệm Vụ, Danh Dự,  Tổ Quốc” như tướng MacArthur mới đuợc gọi là nguời Lính Già Không Bao  Giờ Chết. Ðó là lý do tại sao tác giả cuốn sách này đã dùng câu hát  Nguời Lính Gìa Không Bao Giờ Chết để gọi tướng Douglas MacArthur. 
Trần xuân Hiền
Old Soldiers Never Die
No comments:
Post a Comment