( Xin chân thành cảm ơn:
Đại Tá Trần Kim Đại,  Liên Đoàn Trưởng LĐ12 BĐQ
Trung Tá Hoàng Phổ, Liên  Đoàn Phó LĐ12 BĐQ
Đại úy Nguyễn Trung Tín,  Y Sĩ Trưởng LĐ 12 BĐQ
Đại úy Trần Văn Vương, Đại Đội Trrưởng ĐĐ3/TĐ37/LĐ12BĐQ
đã  giúp người viết xác  định tình hình, thời gian hành quân, và vị trí của  Liên Đoàn 12 BĐQ trên đường  vào Nông Sơn, 24-07 đến 09-08-1974 )
24-07-1974
- Sao lại là Duy Xuyên?  Đang đụng nặng ở Đức Dục mà!?
Người  bạn Trung Đội Trưởng  vừa đốt thuốc, vừa hỏi bâng quơ. Không ai lên  tiếng trả lời. Các “ Quan nhí “  còn lại chỉ ngồi trong quán, trầm ngâm  nhìn ra bên ngoài, nơi đơn vị đang rải  dài hai bên Tỉnh lộ, và cũng  đang đứng, ngồi tán chuyện với nhau.  Có lẽ lính  cũng như quan đều có  cùng một thắc mắc vì tin tức về sự thất thủ Nông Sơn đã  được loan báo  từ 18 tháng 7, lúc Liên Đoàn còn đang dưỡng quân trong công tác  bình  định an dân tại Quảng Ngãi. Tướng Trưởng đã tung Sư Đoàn 3 Bộ Binh vào  vùng   Đức Dục, nhưng nghe nói Trung Đoàn 2 có một tiểu đoàn bị kẹt cứng  tại khúc sông  Tịnh Yên và viền núi ngay vòng đai phía tây nam của An  Hòa, nghĩa là còn cách  Nông Sơn đến cả hơn 10 km đường bộ. Việc làm của  cấp trên nhiều khi khó hiểu, và  câu hỏi có lúc chỉ là lời cho có gì để  nói mà thôi. “ Mình là con ghẻ. Ai sai  đâu, thì đi đó. Họ muốn xài  mình ra sao thì xài.” Câu này của ai không biết,  nhưng đã trở thành  chân ly’ của dân tăng phái, và “ phe ta ” đã chấp nhận nó với  tinh thần  …sao cũng được! 
Rồi  cũng đến lúc lên xe.  Lại con đường quen thuộc xuôi nam qua Hòa Vang,  Miếu Bông, Vĩnh Điện. Vẫn những  khu vực trù phú dọc theo Quốc Lộ 1, con  đường huyết mạch của những vùng đông đúc  dân cư. Vẫn những sinh hoạt  bình thường về mọi mặt. Ánh mắt nhìn theo đoàn xe  gần như vô cảm mặc dù  người dân không hờ hững với Lính. Người thân của họ đang  có mặt trong  chuyến công voa. Đa số Mũ Nâu trong Tiểu Đoàn 37 BĐQ và cả Liên  Đoàn 12  BĐQ là thanh niên Đà Nẵng và những vùng lân cận. Nhưng người dân đã quá   quen với cảnh binh đao, quá gần với sanh ly, tử biệt, khi mà đất Thuận  Hóa từ  thuở đựơc khai khẩn đến hiện tại không lúc nào ngớt can qua.  
Đoàn  xe quẹo phải tại Nam  Phước. Tỉnh lộ nối vào Duy Xuyên là con đường từ  thời Pháp đến giờ không được tu  sửa đúng mức nên lớp nhựa đã nứt nẻ và ổ  gà như mặt rỗ. Đoàn GMC không dừng ở  chợ quận như mấy tháng trước, khi  đón Tiểu Đoàn về ăn Tết hậu cứ, mà vượt Cầu  Chìm để vào tận Trà Kiệu.  Đoạn đường quen thuộc mới hôm nào thật sinh động dưới  màu nắng xuân nay  trông đìu hiu và lặng lẽ làm sao! Khu làng định cư, ngay phía  nam tỉnh  lộ, ở khoảng giữa Cầu Chìm và Trà Kiệu, đã vắng bóng người. Thỉnh   thoảng có tiếng đạn cối rót vào nơi vườn trống nhà không một cách vu vơ,  chẳng  làm nao núng một ai trên chuyến xe đang vào vùng đổ quân. Nhưng  chiến tranh đã   về gần như vậy sau?! Mới hôm nào hai quan “ nhí “ - khi  dẫn đệ tử  ruột lén thẩm  quyền Vương Vũ, vượt mấy bờ đê của ruộng đồng  Duy Sơn để mò về Trà Kiệu xem…cảnh  xuân - đã  tình cờ dừng lại đây trò  chuyện với một cô giáo từ Đà Nẵng về thăm  cha mẹ. Vui quá nên hai quan  “ nhí “ bỏ luôn mục đích và phải vội vã lội về sau  bữa ăn đạm bạc với  cả gia đình nàng. Kỷ niệm còn đó, nhân ảnh bây giờ nơi đâu?  Cách hai xe  phía sau chắc chắn Nguyễn Thanh Vân cũng có cùng tâm trạng. Chút nữa   phải nói chuyện này với hắn mới được.
Trà  Kiệu cháy bỏng dưới  nắng hè đang đổ lửa. Kinh đô khởi thủy của Chiêm  Quốc ngày xưa có lẽ đã đi vào  quên lãng theo qui luật tự nhiên của thời  gian nếu không có phép lạ của Đức Mẹ  năm 1885 để cứu ngôi làng công  giáo khỏi bị quân đội Văn Thân tận diệt. Từ đó,  khoảng đất trên dưới  một cây số vuông với chừng ba ngàn giáo dân này đã  trở  thành trung tâm  hành hương nổi tiếng và cũng là thành trì chống cộng hữu hiệu  nhứt của  Duy Xuyên. Trà Kiệu hôm nay cũng đang khiêm nhường hy vọng vào sự chở   che của Mẹ Thiên Chúa khi tiếng súng lớn nhỏ vang vọng đâu đó không xa  và thỉnh  thoảng đã có đạn cối của địch từ hướng thung lũng Quế Sơn rót  vào khu vực đông  nam của tỉnh lộ.
Tiểu  Đoàn xuống xe ngay tại  tượng đài Đức Mẹ, băng qua xóm chợ dưới chân  đồi Trà Kiệu, rải đều ra phía sau  mấy dảy phố và dọc theo đường lộ, thả  về hướng tây bắc chừng vài trăm thước, rồi  nằm tại chỗ chờ lệnh. Tiếng  súng từ phía trước mặt đang vọng đến thật gần.Vài  lời kinh khấn vội,  thêm vài câu nguyện thầm, xin ơn an bình cho đơn vị và cho  người dân  Trà Kiệu, là vừa vặn có lệnh đến gặp Đại Đội Trưởng để nhận kế hoạch   hành quân trước khi vào vùng.
Thì  ra trận chiến đang diễn  ra phía Chiêm Sơn. Đồn nghĩa quân phía cực bắc  bị vây đã mấy hôm. Lính không  được tiếp tế, còn dân thì kẹt đường giao  thông vì đường lộ bị chận, khóa, và đặt  mìn. Trà Kiệu là một trong  những trung tâm hành hương nổi tiếng, một tiền đồn và  cũng là biểu  tượng chống cộng. Vì vậy Liên Đoàn 12 BDQ dù đang trên đường vào  Nông  Sơn cũng được lệnh chuyển hướng đến giải tỏa áp lực địch tại Duy Xuyên  để  củng cố lại an ninh và sinh hoạt cho Trà Kiệu.  
-  Thằng 4 theo hướng núi.  Thằng 2 nổ lực chính, ủi ngay trên đường để gỡ  chốt. Tiểu Đoàn và thằng 1 theo  sau nó. Còn mình cặp hông theo hướng  ruộng. Tất cả các Đại Đội sẽ xuất phát một  lượt. Đại úy Vương trải bản  đồ, ban lệnh thật ngắn gọn. Trung Đội 1 và 3 theo  Đại Đội Phó tùng  thiết từ đây bọc lên tỉnh lộ. Trung Đội súng nặng và thằng 2 lo  mặt bên  này. Mình bọc hông, giữ sườn, và sẽ qua mặt Đại Đội 2 sau khi nó thanh   toán xong mục tiêu, sau đó mình sẽ dừng lại đây qua đêm. Lần này đụng  với du  kích xã có tăng cường một thành phần của chủ lực tỉnh. Chỉ là  đám chuột nhắt,  nhưng là sân chơi của tụi nó. Phải hết sức cẩn thận.  Nhớ dặn con cái coi chừng “  Ma “ , nhất là trên mấy con đê dẫn vào  làng. Có ai cần hỏi gì không? Tốt! Tất cả  về chuẩn bị.
Hai  chiếc M113 lừ đừ lao  xuống ruộng khô. Lính hàng ngang lúp xúp chạy  theo. Đất nứt nẻ. Nhiều mảng cháy  khét, xám xịt. Pháo thủ trên hai con  cua sắt bắt đầu siết cò. Mọi hỏa lực đều  dồn vào những bóng người ẩn  hiện phía bên kia con đê dẫn vào ngôi làng đang ngún  khói. Tiếng đại  liên 50 dòn dã khạt đạn từng hồi, át hẳn tiếng súng cá nhân và  cả M60.  Hòa trong tấu khúc liên thanh là vài “ dấu nhấn “ của M79 . Tiếng “ xập   xình” của quả đạn rời nòng cắm vào mục tiêu nghe không khác gì nhịp  chõi trong  một bản nhạc không có tiết tấu. Cua sắt tăng tốc độ rồi dừng  lại nơi bờ đê.  Khinh binh đồng loạt xung phong vào bìa làng. Địch tốc  hố lách nhanh qua các bờ  dậu. Lính vừa bắn vừa truy kích, nhưng nhịp  tiến công chậm dần vì phải bung ra  lục soát. Nguyễn Thanh Vân ra dấu  chỉ về bên trái rồi cho Trung Đội của hắn lạng  nhanh qua một ngôi nhà  có căn hầm nổi ngay phía trước sân. Đám em út bên này  cũng hăng hái  lùng sục khá ồn ào. Nhưng chỉ là làng trống, vườn không. Người dân  đã  tản cư từ lâu, chỉ có hầm hố chiến đấu thì còn mới nguyên. Đám chuột  nhắt đã  nương theo mấy hàng dậu chém vè thật ngọt. Nút chặn đã bị bứng  nhưng địch có lẽ  vẫn còn đâu đó trong các khóm nhà lân cận. Đám “ Địa  Phao Câu “ ở đâu? Sao để  tụi nó thóat khỏi vòng vây thoải mái quá vậy?  Mẹ kiếp! Đâu có thể bỏ cuộc dễ  dàng như vậy được! Bỏ đê, bung đội hình.  Trung đội mở cánh quạt băng ruộng khô,  tạt qua làng bên cạnh. Chỉ vài  công đất và mấy con đê là đã qua một khóm xanh  cây lá với vài nóc gia  khác. Những thôn xóm khoanh tròn như ốc đảo có thể đã trở  thành nơi ẩn  mình ly’ tưởng của đám du kích. Có thể tụi nó trà trộn trong đám  dân  xôi đậu quanh đây thôi. Nhưng đã xục xạo mấy khóm nhà rồi mà không thấy  gì  khả nghi. Không lẽ phải gom đám dân này để thanh lọc và điều tra!?  
- Chuẩn úy tính sao? Trung  Sĩ  Xuân chỉ đám người đang bị lính gom trước  một khu đất. Có cần khai thác  không ?
 Khai  thác! Không phải là  nghề của dân bóp cò. Đang hành quân giải tỏa chứ  không phải tảo thanh hay bình  định. Không thể bắt họ làm con tin. Đụng  tới đám dân xôi đậu này là rắc rối chứ  không vừa. Tụi du kích không  chừng đã cao bay xa chạy lâu rồi. Có khai thác mấy  người đàn bà và trẻ  con này cũng vô ích thôi. Tốt nhứt là di chuyển về phía tỉnh  lộ để tới  điểm hẹn với Đại Đội cho ấm thân. Nhưng làng nào mới là mấy cái chấm   đen Vương Vũ khoanh trên bản đồ!? Chết mẹ! Hăng máu quá nên đã đi lố rồi  chăng?  Không thấy cua sắt. Cũng không có bóng dáng của Trung Đội 3 đâu  hết. Lên máy hỏi  thì quê quá! Thây kệ! Cứ bẻ góc, tạt qua khóm nhà bên  này cái đã! Dù sao cũng  từng là Kha sinh của Hướng Đạo mà! Nhắm hướng  là nghề của chàng.  
- Chuẩn úy! Vương Vũ muốn  gặp. Thằng em nói xong là chuyển ống liên hợp qua ngay.
- Tôi đây thẩm quyền.
- Đang ở đâu thế?! Cho tôi  địa chỉ ngay. 
- Đang ở gần ba cái mụn cám  thẩm quyền chỉ ban nảy.
-  ĐM! Tôi đang ở ngay chỗ  đó rồi. Còn cậu thì chắc là lấn qua phía tụi “  Đi Phát Qùa” từ nãy giờ cho nên  không thấy đâu cả. Cho ngay ba cú để  định hướng, nhanh lên!
Ba phát đạn chỉ thiên vừa  dứt là đã nghe tiếng  “ xì nẹt “ và giọng gầm gừ của “ Bố già “ vang lên :
-  Biết ngay mà! Cả nhà đang  ở hướng tám giờ của cậu. Khi đến sợi dây đỏ  sẽ có đám em của thằng “ Ti Vi “ đón.  Mau lên để còn kịp lót ổ. 
“  Bố Gìa “ chỉ cằn nhằn cho  có lệ rồi thôi. Mọi người vô sự. Nghe nói  Đại Đội 2 vớt đẹp mấy con và gom vài  khúc củi làm quà tiễn chân Liên  Đoàn Trưởng sẽ đi học Chỉ Huy Tham Mưu nay mai.  Đây chỉ là màn hâm nóng  sau thời gian nghỉ ngơi lấy sức trước khi thử lửa với  chính qui. Sau  khi phân vị trí cho các Trung Đội, Đại Úy Vương  họp  thông báo và phân nhiệm về chuyến di hành  vào Đức Dục ngày mai. Cuộc  họp ngắn, gọn. Đại khái là Đại Đội sẽ dẫn đầu Tiểu  Đoàn khai thông con  đường vốn đã bị bỏ hoang từ khi Mỹ rút quân, khoảng cách  trên dưới 14  cây số, để tới Giao Thủy. Thiết Kỵ sẽ chờ ở đó để chuyển quân vào  Đức  Dục. Vương Vũ chỉ đích danh Trung Đội 1 đi tiên phong.  Là hành động  phạt vạ  cái tội đi lạc hôm nay, hay  Bố Gìa  gián tiếp “ trao vinh dự  mở đường “ cho  chàng Hướng Đạo?! Sao cũng được!  
- Mấy ông qua chỗ tui lai  rai không? Nguyễn Thanh Vân hỏi với khi mấy “ Quan nhí “ rời chỗ Vương Vũ.
-  Tôi cần ngủ sớm. Ông đưa  cay với hắn đi. Lê Văn Hữu vừa quay lưng vừa  nói, nhưng bất chợt quay lại, ngạc  nhiên. Mà nhậu cái gì mới được!? Ông  tìm rượu đâu ra hay vậy?
-  …Mẹ! Có mồi nhậu là được  rồi. Còn bày đặt thắc mắc. “ Ti Vi “ làm bộ  nhăn nhó. Bách Nhật với thịt hộp  được không? Làm sớm, nghỉ sớm. 
Cuộc  nhậu không suông sẻ  như mong muốn vì mới đầu hôm thì đã có tiếng phát  thanh của địch đâu đó thật gần,  vang lên mồn một, phá tan sự tĩnh lặng  của màn tối thôn quê. Giọng the thé, chói  tai của một em du kích hay  dân quân nào đó nghe chua hơn dấm và làm mọi người  mất hứng. Không rõ  đây là băng thâu sẵn rồi khuếch đại bằng loa cầm tay, hay  chính là  giọng người thật đang nói trực tiếp. Lời kêu gọi “ …Các anh lính Cộng   Hòa hãy buông súng trở về với hàng ngũ của nhân dân, hợp tác với cách  mạng…”  cùng với những luận điệu tuyên truyền nghe ngứa tai tới mức muốn  cho lính lục  soát khoảng tối trước mặt hay gõ vài trái M79 cho chúng  nó câm họng.
-  Không thể được! Kệ mẹ tụi  nó. Vương Vũ đến tận tuyến đóng quân để định  hướng nơi phát xuất lời phát thanh,  đồng thời xem xét vị trí và cách  bố phòng qua đêm của Trung Đội. Thảy lính vào  là bị phục ngay. Còn bắn  chúng nó thì ngộ nhỡ rơi vào nhà dân là mình ở tù như  chơi. Nhớ canh  gát đàng hoàng. Có thể là dương đông kích tây không chừng.
Nhưng  rồi đêm trôi qua  trong an bình. Có lẽ địch chỉ muốn quấy rối cho lính  mất tinh thần hay ít nhứt  là mất ngủ mà thôi. Buổi sáng phủ màn sương  mỏng, đủ để nhìn trực diện vừng đông  đang dần vươn trên khóm lá mà  không sợ bị chói mắt. Sau lời dặn dò của Vương Vũ  là cuộc di hành bắt  đầu. Từ đoạn này trở đi là không còn bạn bè giữ cho ấm sườn.  Trung đội  chia khoảng cách từng người rồi thận trọng tiến bước. Sợi chỉ đỏ trên   bản đồ- dấu hiệu của đường xe lưu thông- trên thực tế chỉ khá hơn đường  mòn một  chút nhờ vẫn còn vết xe để lại hai lằn bánh. Con đường liên  tỉnh bắt đầu từ Quốc  Lộ 1, tại ngả ba Nam Phước, chạy  vào tận vùng núi  nơi có mỏ than Nông Sơn, chia  hai nhánh, một qua đèo Le để vào thung  lũng Quế Sơn, còn nhánh kia biến vào vùng  núi phía cực bắc Đức Dục, nay  đã thành một con đường đất, không hơn, không kém.  Mùa khô, đất cứng,  dễ di chuyển, nhưng vì cần phải chú  tâm vào mìn  bẫy và cả bóng dáng khả nghi trong các làng mạc hay ruộng khô hai bên đường, nên  tốc độ tiến quân chỉ như rùa bò.  
- Mấy năm trước mà đi kiểu  này thì trực thăng lượn qua lượn lại đầy trời. Còn bây giờ…
Trung  Sĩ Xuân thở dài khi  nhìn em út cứ phải liên tục dừng lại, bố trí, thận  trọng lục soát những ngôi nhà  bỏ hoang hai bên đường, hay những lùm  bụi khả nghi, trước khi gom quân tiếp tục  di chuyển. Thời đánh giặc nhà  giàu đã không còn. Bây giờ là “ Tự lực cánh sinh  “. Mà thôi! Chuyện gì  tới sẽ tới. Hơi đâu lo nghĩ cho mệt xác! Vương Vũ cứ nhắc  nhỡ và lên  máy hỏi han cầm chừng. Có lẽ “ Bố” cũng có cùng một mối lo khi sinh   mạng em út cần được tiết kiệm tối đa.
 Con  đường lại dẫn qua một  vùng hiểm trở với một bên là núi đá trơ tróc cây  cành vì bom đạn, còn bên kia là  đồng khô, trống vắng, tầm nhìn lướt  thẳng ra phía sông, nơi đó sừng sững một  chiếc cầu gãy, đang nằm phơi  khung sắt vặn vẹo và hoang tàn.  Cầu xe lửa Chiêm  Sơn! Chiếc cầu nối  hai quận Điện Bàn và Duy Xuyên bây giờ đang gập mình soi bóng  dưới dòng  sông lờ đờ, dáng dấp ủ rủ như đang tưởng tiếc thời vàng son đã qua,   khi nối kết những chuyến than Nông Sơn vào con đường xe lửa xuyên Việt,  và từ đó  ra Đà Nẵng để xuống tàu đi khắp bốn phương. Nơi đường hỏa xa  và con lộ liên tỉnh  nối vào nhau thành một ngả ba đã không còn một dấu  vết nào cho thấy nơi đây đã  từng là một địa điểm quan trọng của hai  ngành giao thông và thương mãi. Tà vẹt  hỏa xa đã được dân và du kích  tận tình tháo gỡ để xử dụng vào những công việc  cần thiết, đặc biệt  nhứt là làm hầm trú ẩn bom đạn. Hầm nổi, hầm chìm, hầm xây  cả trong  nhà. Tà vẹt và đường ray hoàn toàn biến mất trên địa thế!  
Lính  cứ từng bước mà đi, dò  dẫm, thận trọng, cho dù ngang qua khúc đồng  mông hiu quạnh hay những xóm làng xơ  xác tranh phơi. Cảnh vật buồn  thiu. Người cũng không dấu sự lo lắng. Ai trong số  những phụ nữ đang  bồng con đứng nhìn theo đoàn quân đã là người phát thanh đêm  qua, hay  chính họ là giao liên du kích ban đêm, nông dân nội trợ ban ngày?! Ánh   mắt và nét mặt của họ vô hồn. Không đọc được tình cảm đích thực của một  ai, kể  cả tia nhìn lấm lét của trẻ thơ đang níu lưng người mẹ. Thậm chí  có em sợ sệt  chạy vọt vào nhà khi một người lính dừng lại định đưa tay  vuốt tóc bé. Phản ứng  tự nhiên khi gặp kẻ lạ hay chúng đã được giáo  huấn và uốn nắn trong hận thù ngay  từ khi có trí khôn? Làm sao biết  được! Vùng xôi đậu nên chỉ gặp đàn bà, trẻ thơ  và phụ lão! Thanh niên  đâu!? Hỏi tức là đã tìm được câu trả lời!  
Rồi  cũng đến làng định cư  Phú Lạc, những ngôi nhà một gian,vách đất, dựng  vội ngay bên cạnh tỉnh lộ cũng  trống hoắc, mặc dù đây đã là nơi tương  đối an ninh. Những người dân tản cư bây  giờ đã về đâu? Trở lại vùng  hoang tàn đổ nát của nơi chôn nhao cắt rún, hay tản  mác nơi các quận  lận cận, thậm chí về tận Đà Nẵng để tìm nơi an toàn để lánh  nạn? Thật  là buồn cho hoàn cảnh của người dân trong thời loạn! Nhiệm vụ mở đường   đã xong. Cầu Giao Thủy chỉ cách một tầm nhìn. Bạn đã lên máy liên lạc và  xác  định vị trí. Đại Đội dừng chân tại khu làng tản cư, chuẩn bị ăn  trưa, dưỡng sức.  Phần còn lại của Tiểu Đoàn qua mặt để gom dài theo con  đường cặp sát ngả ba sông  và chiếc cầu mới tân trang, nơi đó đã có  Thiết kỵ chờ sẵn. Mới đó mà đã quá  trưa. Gần 5 tiếng di hành trên đoạn  đường chỉ chừng 14 Km đủ làm cho Lính thấm  mệt. Đánh đấm tính sau. Bây  giờ ăn cái đã. Nhưng thầy trò chưa kịp vơ đũa thì  tin buồn đã đến.
- Anh Đăng chết rồi!   
Giọng  của Hạ Sĩ nhứt Kỉnh  như lạc hẳn đi khi chỉ có mấy lời thật ngắn. Người  bạn lao công đào binh vừa  được phục hồi danh dự đã đạp mìn banh xác  hôm qua, ngay ngày đầu tiên chính thức  làm lính Mũ Nâu. Người em và  cũng là  bạn trong toán văn nghệ của Tiểu Đoàn chỉ  kịp dừng lại nói vài  câu rồi lật đật tiếp tục di chuyển. Sau đó Trung Sĩ Chế  Việt rồi Thiếu  úy Tích, Sĩ Quan Trợ Y của Tiểu Đoàn xác nhận và kể thêm chi tiết thì nỗi  bàng  hoàng biến thành buồn bã. Người bạn gốc SàiGòn là linh hồn của ban  văn nghệ bỏ  túi. Đa tài mà cũng rất đa tình. Hồ Huy Đăng đã mang tiếng  đàn vào thiên cổ. Và  ai sẽ là người dạy nhảy đầm cho những gương mặt  trẻ, quan cũng như lính sau  này?!
Lính  không có thì giờ để  buồn. Nhiệm vụ trước mặt còn đầy cam go. Lại gom  quân để cả Tiểu Đoàn từng đợt  leo lên cua sắt vượt đoạn đường dài hơn  10 Km để vào Đức Dục.  Đường dằn xóc làm  mọi người bám thật chặc vào  những gì có thể níu được trên xe. Bụi tung mù mịt.  Từ xa, màu chiến y  hòa vào khối màu của nắng, khói, bụi, đất, và màu ngụy trang  của đám  cua sắt tạo thành một bức tranh thật sống động và hào hùng. Gần tới sân   bay An Hòa thì Thiết kỵ không theo đường tỉnh lộ mà vượt ngang đồi thấp  và ruộng  khô để tránh mìn bẫy, mở hết tốc độ và giữ  khoảng cách khá  xa cùng hăm hở nhắm  hướng núi để tiến vào Quận lỵ Đức Dục. Tịnh Yên, An  Hòa, Đức Dục. Chỉ cần nghe  tên là “ cảm “ được lòng người, là “ thấy “  được phong cảnh. Đức Dục của một  thời phồn vinh và An Hòa của những  năm khởi sắc trong thịnh vượng đã không còn.  Bây giờ An Hòa là những  trụ bê tông xạm màu rêu phong vì nắng gío, lởm chởm vì  lửa đạn. Công  trình xây cất bị bỏ dở ngay từ khi Đệ Nhứt Cộng Hòa bị cáo chung,  và  thay vì là nơi cư ngụ của các kỷ sư chuyên gia về khai thác quặng mỏ,  khu kỹ  nghệ An Hòa đã  là nơi trú phòng ngắn hạn của hầu hết các đơn vị  nổi tiếng thuộc  Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh, từ những toán  Lôi Hổ, Biệt kích 81, cho  đến  các Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Biệt  Động Quân.
Đoàn  thiết vận xa lạng,  lách tối đa để tránh hỏa lực của địch từ trên sườn  dốc của dãy Lôi Giáng đang  tha hồ chọn mục tiêu mà tung SA-7. Dùng bụi  xe làm màn khói, đám cua sắt lủi  thật nhanh vào các dãy khu dân cư   ngoài vòng đai quận lỵ. Lính bung người xuống  xe, tấp ngay vào những  dãy nhà gần đó. Đức Dục lại gồng mình hứng pháo. Địch dò  biết có viện  quân nên đưa sơn pháo dội thả giàn xuống Chi Khu và phố quận. Lính  và  dân bây giờ không biết ai đông hơn ai. Lính đang dồn dập chuyển quân.  Dân hớt  hải rời vùng. Tiếng súng lớn nhỏ từ trên vùng núi đồi trước mặt  hòa với tiếng  đạn pháo kích liên tục làm tăng thêm mức độ trầm trọng  của chiến cuộc.
Cùng  vào Đức Dục với Tiểu  Đoàn 37 BĐQ là Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn  2, SĐ3 BB. Họ được trực thăng  vận cấp tốc vào vùng để cùng với hai Chi  Đoàn Thiết Kỵ của Thiết Đoàn 11  tăng  cường bảo vệ phía nam Chi Khu  trong khi Trung Đoàn 2 tuần tự rút quân, nhường  cho BĐQ nhập trận. Vừa  đánh vừa rút không phải là chuyện dễ dàng. Nhứt là khi  Trung Đoàn 1 của  Bắc Việt đã thay thế Trung Đoàn 36 bám theo các Tiểu Đoàn 1/2  và 3/2  từ tận trong khu vực thung lũng Khê Le ra đến dãy Dương Côi và  núi Kỳ  Vĩ  ở phía tây nam. Nói chung, địch vừa cầm chân bộ binh vừa quấy rối  hậu phương và  quân tăng viện bằng mọi cách, đặc biệt là sơn pháo 122 và  130 ly. Không thể di  chuyển khi còn nắng sáng trời dù đã sắp hoàng  hôn, nên Tiểu Đoàn 37 BĐQ ếm quân,  chịu pháo, để chờ đến tối lên núi  thay bạn tiếp chiến. Lại là những lo lắng, ưu  tư cố hữu nên cơm chiều  chỉ nuốt vội cho có sức. Chút thời gian chờ đợi được  dành cho những suy  nghĩ vẩn vơ về những năm yên bình của thời tuổi nhỏ. Thời  miên man  đứng nhìn không chán mắt bảng quảng cáo than đá Nông Sơn thật lớn tại   góc Phan Đình Phùng và Công Ly’. Mới đó mà đã hơn 10 năm! Tấm panô đã  biến mất  từ hồi nào không biết nhưng hình vẽ của khu kỹ nghệ trên đó  vẫn hiện hữu và càng  thêm đậm nét trong lòng. An Hòa là đây. Nông Sơn  cũng không xa. Nhưng tái chiếm  Nông Sơn, hay chỉ dàn quân canh phòng  Đức Dục?  Hai nơi chỉ cách nhau trên dưới  10 Km đường chim bay mà sao  như xa tắp mù khơi. Đường vào Nông Sơn đang bị ngăn  trở. Địch đang  giăng bẩy chờ. Bạn còn đang vất vả lui quân. Trong khi chờ đến  phiên  mình nhập cuộc, xin chân thành nguyện thầm cho những hy sinh, mất mát  của  vùng đất hiền hòa nay đã rơi vào tay giặc. Hãy chờ đó vì …Ta đã đến  đây rồi Nông  Sơn ơi!

No comments:
Post a Comment