Chúng tôi rời  Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp  đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu  phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để  chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng  đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù  hận và dục vọng… Một tháng “vỡ mặt” lính non cũng như lính già. Chúng  tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội  lừa lọc.
Thủ  Đô! Tôi đi xa không luyến tiếc. Quá đủ những con đường Sài Gòn đêm vắng  vẻ, dây kẽm gai chằng chịt, lựa đạn cay xót xa nước mắt. Đã quá đủ với  Sài Gòn những buổi trưa nóng như thiêu đốt, áo giáp, nón sắt, mặt nạ,  người lính đứng cô đơn trong sỉ nhục căm thù của đám đông nhân danh Tổ  Quốc và Thượng Đế… Sài Gòn, chúng tôi thù ghét và ghê tởm Thủ đô đục  ngầu phản bội và thù hận. Tôi ao ước một cơn hồng thủy sẽ cuốn trôi  thành phố sau lưng, một cơn hồng thủy xóa hết dấu tích nhơ bẩn mà Thủ đô  đã bôi lên khuôn mặt bi thảm của quê hương. Tôi ao ước được quên một  thành phố tên gọi Sàigòn.

Xe  chạy ra khỏi thành phố hướng về Tây Ninh. Trời xanh, không khí thoáng  đãng, tôi thèm được đi xa. Đến Hóc Môn, đoàn xe dừng lại để lính nhảy  xuống mua các thứ lặt vặt cần thiết cho cuộc hành quân. Sau hai tháng  căng thẳng trong sự chết và bạo động, người lính bây giờ được thả xuống  giữa quận lÿ sầm uất chất phác. Họ thỏai mái dễ chịu như trở về thế giới  quen biết. Chúng tôi phải trả nợ nghiệp lính bằng năm ngày hành quân  trước khi trở về hậu cứ. Từ Hóc Môn đoàn xe đi dọc theo liên tỉnh lộ 15  hướng về phía bắc, xe chạy trong cánh đồng mênh mông, sau hơn một tháng  bị nhốt chặt trong thành phố ầm ĩ nay được thả ra cùng đất trời rộng  rãi, lòng tôi mở ra như cơn gió reo. Đến ấp Đông Nhất cách Hóc Môn mười  cây số, dừng lại xuống xe. Một tiểu đoàn bộ binh đã có mặt từ trước đợi  chúng tôi. Hai tiểu đoàn sẽ xuất phát từ đây, xâm nhập theo con đường  liên tỉnh hướng tây-bắc để giải tỏa áp lực địch tại vùng Bến Cỏ. Hai đơn  vị đã dàn xong đội hình, lấy con đường làm chuẩn, tiểu đoàn bạn bên  trái, chúng tôi bên phải, mục tiêu là làng Paris Tân Qui, nơi gặp gỡ của  đường liên tỉnh 15 và hương lộ nối từ Ấp Nhà Việc với Củ Chi. Đại đội  74 dẫn đầu, đại đội chúng tôi đi chót, trung đội tôi đi cuối cùng. Mười  phút đã qua, chúng tôi vẫn chưa di chuyển được thước đất nào, rảnh rỗi  tôi lấy khẩu cầm ra thổi, tiếng trầm bỗng loang xa trên cánh đồng chơi  vơi như cánh chim nhàn hạ… Bỗng súng nổ, một tràng ngắn, tiếp theo những  tràng đại liên ròn rã ở phía đầu tiểu đoàn bộ binh. Cuộc chạm súng kéo  dài khoảng mười phút, địch chỉ muốn trì hoãn bước tiến đoàn quân để chạy  trốn. Mười hai giờ trưa đến Paris Tân Qui, làng nhỏ bao bọc chung quanh  bởi rừng cây cao su xanh ngắt. Địa danh thật đặc biệt, không hiểu do sự  nhầm lẫn của người lập bản đồ hay do một anh Tây nào đó trong lúc  nghịch ngợm đem tên của Thủ đô ánh sáng đặt cho làng nhỏ này. Tiếp tục  tiến quân lên Bến Cỏ, quận lÿ đặt cuối đường liên tỉnh, bên kia suối Bến  Nây. Cầu đã bị giựt sập, tiểu đoàn dừng lại bố trí quân dọc theo đường  đá đỏ. Đại đội 72 đi đầu cho một vài khinh binh qua dò đường. Trời ủ  giông, nắng quái mây mù, con đường vắng như một nỗi thê lương… Nếu không  có chiến tranh, từ đây về Sài Gòn chỉ khoảng nửa giờ xe đò, những con  đường nhỏ này là mạch máu của miền Nam nối liền Thủ đô với thôn xóm trù  phú. Ruộng ở đây không bát ngát bằng những tỉnh ở miền Tây, nhưng mạnh  và tươi tốt. Nhìn đồng lúa mới thấy rõ sức chịu đựng dẻo dai triền miên  của dân tộc. Nhớ bài chính tả của mười hai năm trước — Đồng lúa mới… Tôi  đến một vùng quê, kề bên trận địa, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng  bóng người nông phu cần mẫn, nhìn vào thôn xóm không một bóng người,  khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm… Sáng mai thức dậy, đố ai biết có  những gì thay đổi, cánh đồng vắng vẻ ngày hôm qua nay đã xanh rì ngọn  mạ… Bài chính tả của lớp nhì biến thành bài học thuộc lòng. Ông giáo cuả  tỉnh nhỏ, thầy Tiến, trường Hoàng Diệu, dáng người mập mạp, nhưng bỗng  nhiên khuôn mặt hóa nên linh động khi giảng nghĩa cho lũ học sinh nhỏ,  sức chịu đựng nỗi kiên nhẫn của những người nông phu, đêm trở về trên  cánh đồng vắng, cắm những cây mạ xanh trong lòng đất còn mùi thuốc súng…  Cánh đồng ở đây cũng loáng nước, mái tranh thôn xóm tiêu điều xơ xác,  nhưng thân lúa xanh vẫn mọc lên phơi phới. Tôi rung động trong niềm cảm  phục quê hương, những người nông dân Việt Nam cuối tận cùng của khổ cực  luôn luôn thắp sáng cho mình hy vọng. Nhớ đến bàng hoàng dáng dấp của  thầy tỉnh lẻ, một ông giáo bình thường nhưng đã gieo vào hồn tôi những  rung cảm kỳ diệu khi bằng giọng nói của người dân xứ Quảng với quê mùa  mộc mạc, thầy Tiến vẽ trong đầu óc trẻ thơ một hình ảnh lặng lẽ nhưng  hào hùng của dân tộc. Cảm giác này cũng tương tự như khi đọc Sơn Nam với  những câu ca dao… Ra đi gặp vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết, gặp chùa  cũng tu… Cảm ơn đời trong tuổi nhỏ đã có người tặng cho những đóa hoa  dịu dàng, những lời ca ngợi quê hương. Người Đại Hàn tượng trưng cho dân  tộc của một đóa hoa, Trung Hoa, Nhật Bản lấy biểu tượng ở mặt trời… Tôi  ao ước được trông lại biểu tượng cây lúa của dân tộc. Cây lúa bình  thường đầy kiên nhẫn.
Ba  người khinh binh đi đầu tiến ra được giữa cầu, cầu bị gãy, họ phải bò  theo những thanh sắt, một loạt đạn từ bờ bên kia bắn vụt qua. Đạn chạm  vào thành cầu long cong, một người lính lảo đảo rơi xuống, hai người kia  vội vàng chụp lấy bò trở về. Súng cối của tiểu đoàn bắn về phía có  tiếng nổ năm trái… Ba người khinh binh khác được đề cử qua cầu, dưới sự  yểm trợ của súng cối 60 và 81 (1) trong lúc súng cối  tạm ngưng vì tháo  đạn chưa kịp, Việt Cộng ở bên kia bờ lại bắn qua tới tấp.
Hai  người lính ở sau bò lại, chỉ một người qua được bên kia bờ. Không thể  làm im được toán Việt cộng bên kia bằng súng cối, mặc dù chúng chỉ ước  chừng một tiểu đội, nhưng hầm hố kiên cố đạn súng cối chính xác đến đâu  cũng không phá hủy được. Hơn nữa số đạn mang theo giới hạn. Bộ chỉ huy  tiểu đoàn quyết định gọi máy bay đến oanh tạc đồng thời đề phòng trường  hợp địch tập trung đông. Ba Skyraider (2) bay một vòng để chỉ định mục  tiêu. Khói trắng vừa bốc lên khỏi lũy tre, chiến đấu cơ hạ thấp độ cao  đâm thẳng xuống, cả một khu bìa làng bị cầy tung đất khói và lửa bốc  thành những chiếc nấm lớn. Năm giờ chiều, người chót của tiểu đoàn mới  qua hết con suối, ngôi làng con âm ỉ cháy, mùi lá tươi bị đốt nồng nặc.  Chúng tôi đóng quân đêm tại đây, cứ điểm Bến Cỏ nằm sau lưng không đầy  một cây số. Ngày mai chúng tôi sẽ vào đấy giao tiếp với một tiểu đoàn  Biệt động quân bị cô lập suốt sáu tháng nay.

Bảy  giờ sáng, tiểu đoàn bắt đầu di chuyển, đoạn đường xuyên qua làng mạc  dày đặc vườn cây ăn trái và nhà cửa. Đường liên tỉnh 15 chạy từ Hốc Môn  đến Bến Cỏ chia làm hai nhánh, một đường chạy lên hướng bắc gặp bờ sông  Sài Gòn, từ đây chạy song song với con sông lên đến vùng Bến Súc rồi ra  Trãng Bàng. Một nhánh ngắn hơn từ Bến Cỏ chạy ra Củ Chi. Bốn cứ điểm Bến  Cỏ – Bến Súc -Trãng Bàng – Củ Chi tạo thành khu tứ giác mật khu Hố Bò  nằm song song với mật khu Bời Lời ở bờ phía bắc sông Sài Gòn. Cứ điểm  Bến Cỏ như một cái nút chận đường xâm nhập của địch về Gia Định nên từ  lâu địch đã vây kín và pháo kích vào hằng ngày. Chúng tôi tiến quân thật  dè dặt, một đơn vị bạn trước đây đã bị phục kích ngay tại khu làng này  khi muốn “bắt tay” (1) với đơn vị trong đồn, hôm đó pháo binh và phi cơ  không thể can thiệp được, trong khi địch có đủ công sự phòng thủ và giao  thông hào dày đặc trên lộ trình vào cứ điểm. Hai đại đội đi đầu không  dám đi trên đường vì sợ mìn, khi đi qua các khu vườn mọi người đều ngán  ngẩm, địa đạo và giao thông hào đào chi chít, nếu địch phục kích chúng  tôi tại đây thì khó lòng chống trả. Vòng rào dây kẽm gai và cột dây trời  của đồn hiện ra trong tàn cây xanh. Thật thận trọng, tiểu đoàn trưởng  ra lệnh cho từng đại đội một tiến vào hàng rào phòng thủ, hai người lính  Biệt động quân ra mở cổng… Cứ điểm gồm có hai phần, chiếc đồn chính nằm  ở phía trái của con đường, bộ chỉ huy tiểu đoàn Biệt động quân đóng  chung với một đại đội Địa phương quân tại đây; đồn là một loại bót nhỏ  của lính Pháp để lại, tường gạch rêu phong ba tháp canh trơ trọi đứng ba  góc, chung quanh đồn là tuyến phòng thủ của ba đại đội tác chiến, những  người lính Biệt động quân đào hầm ở ngay trên tuyến phòng thủ. Đối diện  chiếc đồn là ngôi chợ nhỏ, hai bên đường nhà thường dân san sát vào  nhau, phần lớn cửa đóng, người dân đã di cư về Bình Dương hay Sài Gòn.  Có những danh từ nghe thoạt tiên rất vô nghĩa, nhưng nếu với hoàn cảnh,  không khí thì thích hợp, những chữ nghĩa khô khan kia hóa nên linh động  hẳn ra như một nốt nhạc. Ở đây, Bến Cỏ không thể có một tên gọi nào  thích hợp bằng “phố chợ”, không thể gọi là quận lỵ, thị trấn, cũng không  hẳn là một cứ điểm đúng nghĩa danh từ quân sự… Một tiểu đoàn lính bao  một đám dân, con đường, ngôi chợ, hai dãy nhà cửa, cây bàng xanh tươi  bóng mát, vài quán hàng bán những thức lặt vặt. Bến Cỏ không có nét trẻ  trung, vui vẻ của những phiên chợ thôn quê, đây không khí tang thương,  khắc khoải như một bệnh nhân bị gậm mòn dần bởi chứng nan y. Chúng tôi  ra đóng quân ở phía đông của cứ điểm. Những buổi sáng lính thường vào  uống cà-phê ở chiếc quán dưới gốc cây bàng, những người lính ngồi đối  diện với nhau lặng lẽ. Con đường vắng hoe lác đác dăm chiếc lá khô, điểm  sinh động duy nhất là quán hủ tiếu của một người Tàu. Người Trung Hoa  trong hoàn cảnh nào cũng đứng đầu bởi sức chịu đựng, nhưng người Việt  cũng đâu kém. Chúng tôi đóng quân được hai ngày, tình hình im lặng, im  lặng ngột ngạt trước trận đánh. Cứ điểm đã bị bao vây suốt sáu tháng,  quân số phòng thủ của tiểu đoàn Biệt động quân bây giờ chỉ còn hơn hai  trăm. Việt Cộng đào hào thông hào đến sát hàng rào phòng thủ, chúng  không tấn công chỉ bắc loa chửi, bắn sẻ, pháo kích… Chiến thuật này đã  làm tiêu hao quân số của đơn vị bạn. Cách hay nhất là đề phòng, nhưng ai  có thể kéo dài tình trạng đề phòng trong sáu tháng. Ngồi uống nước,  nghe tiếng súng cối cuả địch, nhảy xuống hố không kịp thế là bị thương.  Gác ở chòi canh, tuần tiễu ra khỏi hàng rào một trăm thước, khinh binh  coi như đã treo đời mình trên một đường dây mỏng manh. Giao thông hào  đào sát vào con đường từ đồn đi ra, tỏa chi chít khắp nơi, kín đáo chắc  chắn. Người khinh binh làm sao biết được mũi súng ở hướng nào nhắm vào  mình! Sáu tháng, những người lính Biệt động quân bây giờ trở nên dửng  dưng, họ đã đến chót cùng chịu đựng. Ngay đến chúng tôi, những người mới  tới, bằng bao nhiêu cẩn thận cũng không tránh khỏi thiệt hại. Đang nói  chuyện với nhau trong vòng phòng thủ, một viên đạn bất chợt bay đến,  binh nhất Phòng của đại đội 72 ngã xuống chết không ngờ. Viên đạn xuyên  thủng bàng quang chấm dứt đời kẻ bạc phước trong vòng một phút. Từ chỗ  đóng quân vào chợ, đoạn đường không quá ba trăm thước, nhưng cũng không  an toàn. Bất cứ lúc nào, khi toán giữ đường không cẩn thận là có kẻ ngã  gục bị bắn sẻ. Việt cộng rình rập chúng tôi – đêm nay? ngày mai? – Chúng  tôi chờ đợi phút hồi hộp đó. Đóng quân được bốn ngày, chúng tôi nhận  được lệnh rút ra ngã Củ Chi, vẫn lấy con đường liên tỉnh 15 làm chuẩn,  tiểu đoàn chúng tôi đi bên phải, tiểu đoàn bộ binh đi bên trái. Lộ trình  rút ra xuyên qua khu đồn điền cao su Fihoc, hành lang xâm nhập vào mật  khu Hố Bò. Chúng tôi không biết những người bạn Biệt động sẽ ra sao, họ ở  lại chờ một tiểu đoàn khác đến thay thế, hay tiếp tục để nhận một cái  chết mòn mỏi chậm chạp? Có thể các vị chỉ huy ở cấp lớn đã nghĩ rằng:  Chúng tôi đã có mặt bên ngoài trong bốn ngày vô sự vậy là áp lực địch  được giải toả, bây giờ họ đang có những vấn đề to lớn khác cần phải giải  quyết ở Sài Gòn trong đường Trần Quốc Tỏan, ở Đài phát thanh. Thôi,  tiểu đoàn Biệt động quân, các bạn hãy ở lại và tiếp tục như sáu tháng đã  qua. Sáu tháng chỉ thèm một cục nước đá, phần đời của các bạn như vậy  đã được định. Tôi nghĩ đến chiếc bánh mì và nải chuối cuả một mụ nạ  giòng đem đến tặng cho lính ở Đài phát thanh để tri ân quân đội giúp đỡ  đạo pháp…
Bảy  giờ, hai tiểu đoàn song song rút ra. Đại đội tôi cùng đại đội 73 đi đầu  tiểu đoàn. Đại đội 73 đi phía tay mặt tôi, Toàn “đen” dẫn đầu, tôi nói  với Đỗ, anh chàng “Eddie Constantin”:
– Thằng Toàn đi đầu thế nào cũng đụng.
Có  thể lắm, mặt nó có cô hồn… Vừa di chuyển được ba mươi thước một loạt  đạn nổ ròn rã trước mặt. Hạ sĩ Thặng khinh binh đi trước tôi ngã xuống,  hai viên đạn bẻ gãy khẩu AR 15 đồng thời làm cườm tay anh gãy đôi. Việt  cộng thật ra nhắm vào tôi vì cầm tấm bản đồ, nhưng Thặng vừa qua mặt nên  lãnh lấy, hai viên đạn đáng lẽ ra đâm thủng cơ thể tôi… Một thoáng rùng  mình, đạn bắn thấp, nếu không gãy chân thì cũng thủng bàng quang. Tôi  nhớ đến cái chết của thằng Phòng hai ngày trước, chút xíu nữa thì mạng  tôi cũng xong rồi! Vết thương của Thặng không nặng lắm, cây súng đã đỡ  lấy hai viên đạn, cả anh và tôi đều may mắn. Tăng Màn Tài, trung đội phó  khẽ nói với tôi:
– Thiếu uý, hôm nay đụng a, sáng nay tôi nấu cơm không chín.
Tôi  cười không nói, nhưng lòng đầy lo ngại… Cánh quân chúng tôi và bộ binh  tiếp tục di chuyển về phía Bến Mương. Mười giờ – binh nhất Niên – khinh  binh đi trước tôi đột nhiên nhảy hẳn qua một bên, bắn một loạt súng…
– Cái gì vậy?
– Thiếu uý, em thấy trước mặt có người!
– Việt cộng đó, coi chừng.
Buổi  sáng lúc xuất quân đã có người dân đến báo: Việt cộng ở khu rừng cao su  rất đông, đào hầm để đợi chúng tôi. Tiểu đoàn trưởng quyết định chấp  nhận trận đánh, cả chúng tôi và bộ binh đều sẵn sàng tác xạ khi di  chuyển. Niên hét lớn:
– Đưa tay lên, tiến tới.
Trong  lá xanh hiện ra một người mặc quân phục màu xanh đeo ba-lô mặt mày ngơ  ngác. Y là một binh sĩ của tiểu đoàn bộ binh, chúng tôi không biết tại  sao anh ta đi lạc và không có súng. Chúng tôi giao cho ban 2 tiểu đoàn  để điều tra. Chính trong những giờ phút dừng lại để bắt giữ người lính  kia, sau này tôi mới biết đã cứu mạng cho toàn thể trung đội tôi. Vì  trong khi chúng tôi dừng lại, đại đội 73 phía tay phải vẫn tiến tới để  bắt gặp con đường mòn cách đó trăm thước và chính trong lúc này thì trận  đánh bắt đầu, phía tiểu đoàn bộ binh và đại đội 73 súng đại liên nổ ròn  rã không dứt, chúng tôi vội vã dàn hàng ngang chờ đợi.
Đạn  bay trong không khí về phía chúng tôi, lá cao su trên đầu bị bắn tung  bay xào xạc, đạn ghim vào thân cây nghe phầm phập, có tiếng hô xung  phong nhưng không thấy bóng dáng của địch. Đại đội trưởng tôi hét lớn  trong máy:
– Bên bộ binh và 73 đều đụng nặng, anh có chịu nổi không?
– Báo cáo tôi vô sự.
– Coi chừng, tụi nó đánh độn thổ! Bộ binh bị phục kích rồi đấy.
Mười lăm phút sau, đại đội 73 từ bên cánh phải rút về phía chúng tôi. Toàn bị thương, người nhăn nhó đau đớn, hắn phều phào…
– Mày coi chừng, tụi nó sắp xung phong vào đấy.
– Tao đâu có thấy gì?
Một  rừng lá cây chuyển động trước mặt, vài bóng dáng áo đen thấp thoáng.  Trung đội tôi và Kỳ đồng loạt khai hỏa, năm mươi cây súng bắn ra một  lượt, khói hơi thuốc súng bay nồng nặc. Chúng tôi tiến quân từ từ lên  sau mỗi đợt tác xạ. Tôi giật nẩy mình, một hàng giao thông hào mới đào,  lá cây ngụy trang còn xanh tươi, vỏ đạn rơi đầy ở trên mỗi miệng hầm,  đúng là một phép mầu… Việt cộng đã đào hầm hố để phục kích chúng tôi,  may nhờ người lính bị bắt nên trung đội tôi đã dừng lại và vô tình tránh  được cái bẫy đang chờ. Bây giờ mới hiểu tại sao có loạt đạn bắn về phía  chúng tôi nhưng không có địch xuất hiện. Việt cộng sau khi đã chận đầu  tiểu đoàn bộ binh và chúng tôi, vòng ra đàng sau đánh tạt vào hông phải  của tiểu đoàn nơi đại đội chỉ huy và 74. Mặt trước của chúng tôi và 73  tạm yên, tôi cho lính chiếm hết dãy giao thông hào, một vài xác Việt  cộng chết trong vị thế đang chạy, họ thuộc lính chính quy trang bị đầy  đủ súng đạn nhưng không mang gạo. Đúng là tụi nó sửa soạn sẵn để đợi  chúng mình… Lính xì xào bàn tán. Phía sau chúng tôi bây giờ súng nổ  mạnh, 57 của tiểu đoàn bắn ra liên tiếp, đạn nổ tiếp theo liền tiếng  départ chứng tỏ địch rất gần hàng quân. Tôi nghe rõ tiếng hô xung phong  của hai bên chen lẫn tiếng chửi thề… Toàn từ dưới chạy lên…
– Mẹ kiếp, bị thương nằm cũng không yên, tụi nó tới sát rồi mày ạ!
– Ông xui quá ông ơi, đi đâu là đụng đó. Ông tới chỗ nào cũng có máu chảy…
– Mẹ mày – Nó chưởi thề phản đối.
Đúng  như vậy, đi chiến đấu mới thấy có may rủi không lường. Có những cái  chết thật gần, nhưng tránh khỏi, đồng thời có những cái chết thật bất  ngờ, tự nhiên đến không dấu hiệu. Tôi đâm tin vào định mệnh, về một sức  mạnh siêu hình chi phối đời sống con người. Như cái chết của thằng Phòng  hai ngày trước. Buổi chiều chúng tôi đang ngồi nói chuyện gẫu với nhau,  nó từ đâu lại ngồi đối diện với tôi. Chính ngay lúc đó, một viên đạn vu  vơ từ ngoài hành rào phòng thủ bắn vào, nó chết trong khi đang mở miệng  định nói. Cái chết ấy đã làm tôi thấy rõ đời sống nhỏ nhoi, bèo bọt của  kiếp người. Sống đó, chết đó, nào ai biết… Cũng như trường hợp hôm nay,  nếu không bắt gặp người lính bộ binh, chắc chắn tôi và hai khinh binh  đi đầu sẽ hứng hết đoạn đạn đầu tiên khi địch khai hỏa. Và nếu tôi có  chết đi, thì có gì thay đổi? Tôi không có gia đình, không thân thích.  Cái chết chỉ là bọt sóng nhỏ vỡ tan trong đại dương…

Địch  định cắt đôi tiểu đoàn chúng tôi, nên chúng tấn công thật mãnh liệt vào  đoạn giữa, đại đội chỉ huy phải chống lại vô cùng vất vả, 74 đi chót  lại bị cầm chân nên không thể kéo lên gỉai toả áp lực địch được. Tiểu  đoàn trưởng phải gọi pháo binh bắn thật gần tuyến chiến đấu… Gunship  được gọi đến tăng cường. Đại uý Ánh, sĩ quan hành quân của tiểu đoàn  trong khi đứng quan sát để hướng dẫn phi cơ bị một viên đạn vỡ tan lồng  ngực. Tin ông chết làm mọi người bàng hoàng, ông được cảm tình của hầu  hết mọi người vì tánh tình hòa nhã, riêng tôi, những lần trước khi phải  trình diện tiểu đoàn trửơng để nhận lệnh phạt thường phải gặp ông, trong  những giây phút nặng nề đó, lời nói nhẹ nhàng của ông như một an ủi làm  nhẹ đi nhiều phiền muộn. Tôi không biết ông nhiều, nhưng nhớ đến những  buổi chiều, ông đứng ở bờ sông Biên Hòa trông cô đơn và lặng lẽ lạ lùng.  Đại tá Tư lệnh và Bác sĩ Y sĩ trưởng sư đoàn đáp máy bay xuống trận địa  còn nồng mùi thuốc súng. Tôi thấy nét mặt cuả bác sĩ Của cau hẳn lại  khi ông đến gần xác đại uý Ánh. Tiểu đoàn tiếp tục di chuyển đến cầu Bến  Mương bên kia là bãi nhảy Củ Chi, cầu bị sập binh sĩ phải qua từng  người một. Trung đội tôi ở lại cuối cùng để bảo vệ tiểu đoàn qua cầu.  Trời ngã về chiều và khi chúng tôi nhận được lệnh rút đi thì địch từ mé  làng xung quanh bắt đầu bắn ra. Những viên đạn đỏ vạch từng đường đài  trong bầu trời thẫm màu, biết chắc rằng chúng chỉ bắn phá quấy chứ không  thể tấn công vào chúng tôi được. Khẩu đại liên của trung đội qua cầu  được đặt trên một mô đất nhắm về phía làng, cứ chỗ nào nháng lưả là  người xạ thủ bắn lại phía đó. Trận đánh như trò chơi, Việt cộng trong  làng chõ loa ra chưởi bới, tôi đứng trên mô đất khum tay làm loa chửơi  lại. May mắn trong suốt cuộc hành quân làm tôi tin tửơng vào mình hơn  bao giờ hết. Quả thật vậy, khi trung đội qua hết con  suối trời tối hẳn,  Việt cộng từ trong làng chạy ra lố nhố… Chúng tôi vừa bắn vừa chạy lùi  về phía Củ Chi. Bãi nhảy dù bát ngát phủ đầy lá đậu phọng, trung đội  chạy nhanh để đuổi kịp toán quân đi đầu, ai nấy đều vui vẻ vì cho rằng  đã được may mắn. Khi ra đến đường ba người lính trút ba-lô ra, ba-lô bị  đạn xuyên thủng lỗ chỗ.
– Đ.m hên đếch chịu được, đạn trúng giờ nào mà không hay!
– Nhờ cái hên của ông thiếu uý đó mày.
Tôi  leo lên xe ngồi, trời tối đen ở bên ngoài, trong lòng xe muỗi vo ve  nhưng không buồn cử động để đuổi đi. Đời sống người lính qủa thật tội  nghiệp, trong tận cùng nguy biến họ luôn tạo cho mình hy vọng dựa vào  một may mắn mỏng manh… Bao giờ hết may mắn đó sự chết ắt gần kề chạm  phải. Đời sống của chúng tôi đó, trên biên giới sự sống, cái chết.
Tháng 9-1964
Phan Nhật Nam
No comments:
Post a Comment