Charlie Ngày Ấy… Bây Giờ
LTS- Chúng tôi vô cùng xúc động và biết ơn bạn VAN  TOAN và toàn thể nhóm thân hữu quốc nội đã trở lại Charlie và gửi lời nhận định  về trận đánh này cùng những tấm ảnh xưa và nay tại đây, cũng như trích đăng bài  viết “Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử” tổng hợp làm thành tiêu đề “Charlie Ngày Ấy  & Charlie Bây Giờ”gửi đi khắp nơi. Ước mong một ngày nào đó, Nhảy Dù có thể  trở lại Charlie, để cố gắng mang hài cốt anh em chúng tôi đã nằm xuống trong  công cuộc bảo quốc an dân, về cãi táng tại Nghỉa Trang Quân Đội Biên Hòa…Cánh dù  lộng gió muôn phương – Vào lòng đất mẹ máu xương ngậm ngùi. Nhảy Dù Cố Gắng. 
Nguyễn Văn Lập. 
CHARLIE  ngày ấy & CHARLIE bây giờ 
Hôm nay ngày 12/4/2012 đúng 40 năm ngày Tiểu đoàn 11  Nhảy Dù rời bỏ Charlie 12/4/1972, xin đốt lại lò hương cũ để tưởng nhớ anh linh  đồng đội đã anh dũng vị quốc vong thân…
Hình 1- Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11  Dù đeo kiếng, và Đại Úy Đoàn Phương Hải, Trưởng ban 3.
Hình 2- Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó ở giửa dang  rộng vòng tay
Quả tình nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì  cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ  nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, “Cải Cách,”  hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và  Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là  Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.
Từ xa xưa cho đến khi ngọn đồi này bị tràn-ngập. Nó vốn  không hề có tên. Charlie chỉ là một check point trên bản đồ quân-sự cho các cuộc  hành-quân hoặc một chiến-dịch. Và cái tên Charlie cũng chỉ là nhất thời, nó cũng  như những check point khác như Delta, Yankee, Metro . . . chỉ được sử-dụng trong  một giai-đoạn có thể là rất ngắn cho đến khi hết cuộc hành-quân hoặc chiến-dịch  mà thôi. Qua đến chiến-dịch hoặc cuộc hành-quân khác, những check point cũ sẽ  không còn được sử-dụng nữa. Chúng có thể sẽ được sử-dụng bởi những tên mới  khác. Charlie cái tên được đặt đầu mùa 1972 cho một ngọn đồi để tiếp nhận định  mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
Tháng 4 năm 1972 Sư đoàn 320 Bắc Việt bao vây cứ điểm  Charlie. Những cơn mưa pháo kinh khiếp, tàn nhẫn đạt tới “ điểm đứt hơi, điểm vỡ  của chiến trận”(chữ dùng của PNN) phủ chụp xuống đồi Charlie, nối tiếp những đợt  cường tập biển người của Cộng quân. Ngày 12 tháng 4 hỏa tiễn 122 mm pháo trúng  hầm chỉ huy, Trung tá Nguyễn Đình Bảo (Tiểu Đoàn Trưởng ) tử trận. Một trong  những con sói đầu đàn của binh chủng Nhảy Dù sau mười hai năm ngang dọc chiến  trận đã chấm hết phút đó trên cao độ 1020 trông về bốn hướng chập chùng đồi cao  tiếp núi thẩm. Trường Sơn ác độc nhận thêm một hình hài ! Thiếu tá Lê Văn Mễ lên  thay thế và tiếp tục cuộc “thánh chiến” tử thủ Charlie.
Sau 7 ngày giao chiến không được tiếp tế, hết thực phẩm  nước uống, cạn đạn dược. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được lệnh bỏ cứ điểm. Trong màn  đêm họ rút về hướng Đông Bắc. Một số binh sĩ bị thương quá nặng đã tình nguyện ở  lại cầm chân địch quân để đồng đội an toàn rời tử địa. Tiểu đoàn rút khỏi đỉnh  đồi gần nửa cây số những cơn địa chấn dội xuống từ pháo đài bay B-52 san bằng  Charlie, Cứ Điểm Thép của 11 Nhảy Dù cháy hừng hực trong cơn bão lửa, trong vụn  vỡ nát tan của núi rừng hoang dã Tây Nguyên, chẳng còn gì nguyên vẹn ngoại trừ  hồn phách của những người lính Nhảy Dù can trường của Tiểu Đoàn Song Kiếm Trấn  Ải
Van Toan (TM toàn thể thân hữu Quốc Nội  chuyển)
Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử
Thơ và Hồi ký của Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đóm lửa, thắp đời quạnh hiu.
Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn  trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi. 
Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù,  Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng  tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie…
Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ  chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này…
Vào khoảng thời gian này, tất cả ám danh đàm thoại  truyền tin của Pháo Binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí dụ như pháo kích gọi là  3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ  như tên chúng tôi gọi là 314, mổi khi đụng trận, mọi tần số truyền tin đều  chuyển qua hệ thống của đề lô cho dể tác xạ. Bài này sử dụng bạch văn cho độc  giả dể hiểu.
(Tiếng động cơ trực thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn  dập rồi đáp xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo Binh  theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy,  giửa chương trình huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yễm  trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bải đáp là một cánh đồng  trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với  6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an  toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một  khu rừng sát chân núi (tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo  Binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của  chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên hình  như là Trung úy Đỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn  ngay trên đầu mình để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp  đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo  đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC  4522, còn nếu bắn ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng  chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì Tiểu đoàn thông báo cho tôi  xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge  đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy trò vừa xuống xe vào trình diện Ban 3 Tiểu  đoàn 9 thì lại được một công điện về trình diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn  Đình Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy  có điều gì bất tường cả trong lệnh điều động này. Đầu năm 1972, chiến sự đã trở  nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là  chiến tranh ý thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý  nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới  đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái  chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn ý niệm gì về những cuộc ra đi của bạn  bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. Vì ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi  thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định  sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi cho cộng sản quốc tế  của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, còn nếu  không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie,  chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư  đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và phòng không dầy đặc đã sẳn sàng đợi  Tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải ” danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường  bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng  mọc lên làm tôi nhớ lại Saigon, những bửa còn tiền thì đấu với đại võ sĩ Rémy  Martin hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân  Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những người lính Địa  Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh bình yên này chỉ  trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của  đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Võ Định, tôi nhận bản đồ hành quân  từ Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù của Thiếu Tá Bùi Đức Lạc (hiện ở San Jose), là vị  Tiểu Đoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ  Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung Úy Lưu Văn Đúng  danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng tôi  lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311,  cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Đại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn Úy  Sơn danh hiệu 312, đề lô Đại đội 112 của Đại Úy Hùng móm. Chuẩn Úy Trưng danh  hiệu 313, đề lô Đại đội 113 của Đại Úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh  hiệu 314, đề lô Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam).  Đại đội 110 của Đại Úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ  Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo  đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội  155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho  chúng tôi theo yêu cầu. Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn  11, tôi nhận thấy ngay tình hình rất là nghiêm trọng, và một cuộc tapi khốc liệt  sẻ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường  Sơn.
Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực  thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm  trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quãng Trị bay thẳng  về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên  đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, Đại Tá  James Vaught, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù đã gọi máy về MACV tại Saigon yêu  cầu những tên nhà báo ngoại quốc phản chiến bay ra đây nhìn xem Nhảy Dù đánh  giặc rồi về tường thuật lại cho trung thực, nhưng chẳng có tên nào dám ra. Lúc  này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dã  chiến Long Khánh về trình diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu  đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi như một đặc ân về Pháo Binh  Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ (  hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn  mặc bộ đồ xanh bộ binh về trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống, ở xa về  hướng nam, con sông Pôkô màu bạc uốn khúc theo dẫy Trường Sơn rồi đổ ra cắt  ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở  hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc  lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một  thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc  chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bải đáp vì đã có  quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra  hai bên ghìm súng phòng thủ sát giao thông hào, và tôi đã có mặt tại ngọn đồi vô  danh mà sau này đã đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể  nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam  biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Đại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh  Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Đại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000  mét. Còn lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Đại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại  căn cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số.  Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một  trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường  mòn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, còn  Căn cứ biên phòng Benhet thì nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie  nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn bình yên vì cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ  cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto.  Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi  Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho  tiện việc phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ  trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó  lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận  chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận  Charlie.
Đại đội 114 đóng vòng cung phía Nam chịu trách nhiệm  nặng nhất vì địa thế thoai thoải dể đánh lên, và ngoài phòng tuyến cở 50 mét có  nhiều cây cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu  cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Đại đội trưởng cho đào một  cái hầm trú ẩn hình chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây  vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến tìm chổ  đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó.  Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới  làn pháo khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài  tuyến tìm chổ đào hầm, còn máy PRC 25 thì đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào  xem tôi có cần gì không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác  xạ phòng thủ lập một số tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí khoảng  100 mét (có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến  các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng  tôi đã giữ được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Đêm đầu tiên, tôi ngủ  không được vì những tiếng rì rì của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe  Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam  cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ  không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng tình nghi là đường mòn theo  hướng xe chạy để bắn quấy rối (harassing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa  địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế,  ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn  chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và  Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52  dập.
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn Mễ,  Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và  114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một  đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đã  chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn Úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi, Thiếu Tá  Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi  cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .
-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi  sẳn sàng. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.
Độ hai phút sau.
-Bắn. Trả lời.
-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều  chỉnh tác xạ
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.
Đến quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh vào đúng mục  tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ  Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu  cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét (tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin  pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang  điều chỉnh) bắn trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê  Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển  xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao  chiến với mình. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một  tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt vì địa hình không cho phép và đạn AK  từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù  tiến lên theo thế chân vạc. Đạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ  rời rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và cuối  cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai vịt con (tức  Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và tìm được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2  Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh xem có gì không. Vừa dứt lời  thì tiếng depart đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt  oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên vừa  nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ  binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo,  kết quả ta chết một, bỏ lại một M16. Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng  súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt đôi. Địch vẫn  tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.
-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một  nổ. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Lúc này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi bị đánh ngang  hông nên đã sẳn sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay  trên đầu, mãnh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất nghe  rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rỏ.  Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên nổ trên  không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ  cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và  đã vô tình ngăn chận địch không dám liều lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê  Linh:
-Thiếu Tá hỏi xem con cái mình có bị gì không, còn tụi  vịt con tôi đoán thế nào cũng lãnh đủ trái này, mình giử nguyên yếu tố này, nếu  tụi nó lên, mình dứt nó liền. Lúc này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn.  Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc  sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Đại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27 Thủ Đức  với tôi bị mãnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò lại thấy Lạc nằm gần đó  mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xã. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc  nói:
- Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có mình mày lãnh trái  này, còn tụi nó không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân  hận lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, còn tôi thì hết sức buồn bả  hỏi tiếp:
-Mày thấy thế nào.
-Đau, không còn cãm giác gì hết. Thấy Lạc tỉnh táo như  thế tôi càng lo hơn vì người bị thương nặng trước khi chết thường rất bình tỉnh  như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
-Một lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi bò lại phía  Thiếu Tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đã gần  chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tãn. Trong lúc hai  đệ tử lo ăn uống còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung Tá Bảo cũng vừa  đi xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dể thương, nhưng tôi thấy lạ  một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà  thôi. Điềm gì đây, hay là ông đã linh cãm được điều gì.
Sáng ngày 27/3/1972, trong lúc tôi ăn cơm thì có một  người lính chạy vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa  Đại đội 112 và 114 thì thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá John Duffy (hiện ở San  Jose), cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác  phát giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie,  bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :
- Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Địch xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim  bay, tôi quay sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống dòm cho tôi mượn, xa quá  mắt thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa  ống dòm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch  xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 tăng cường. Quả  đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục  tiêu, xong vạch một tuyến dài cở 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau  bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu  Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
- Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ  hai thằng dìu một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống dòm trình lại  với Mê Linh:
-Trúng rồi, Thiếu Tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi  kìa. Thiếu Tá Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu  quả (fire for effect). Tôi đề nghị:
-Đề nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em xuống đồi, đồi cao  như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một  lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông mình làm một lần đưa em vào hạ,  dứt cội da. Thiếu Tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu Tá Duffy không hiểu tiếng  Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T (time on taget) tức là  các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu,  đợi 20 phút sau khi địch không còn khiêng quân xuống đồi nửa, tôi cho lệnh tác  xạ. Lúc này thì họ nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Đức Lạc cho bắn  tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, còn Mông Cổ nhà  ta (anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông Cổ) thì đứng dọc theo chiến  hào quan sát như là một chuyện thường tình (tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt  đạn tôi hỏi xem mình có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện  này. Đến trưa thì một loạt đạn pháo binh của địch từ dẩy đồi hướng tây đối diện  và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Đại đội 112 bắn qua, tiếng depart cũng  giống như đã bắn hôm qua, vậy là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể  rồi, tiếp loạt đạn này là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót  xuống Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến  nay, và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.
Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu thì những  loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề lô,  anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo  thì địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo  diễn ra như cơm bửa, và là lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi  trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 thì chúng đã điều chỉnh pháo binh được toàn bộ  Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề lô của địch đã áp sát được căn  cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
- Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm dò khả năng  mình, sau đó mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản  pháo của ta (đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây  số, và 105 ly của ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi), chổ mình dể lên hơn cả, thế  nào tụi nó cũng đánh hướng mình.
Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy  Đúng:
- Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ  dội, những yếu tố tác xạ tôi đã điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không  kịp. Trung Úy Đúng nói
- Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên  lắm.
- Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng  312 bắn qua, có lẻ 75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao  không thấy thằng 312 gáy (xin bắn).
-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312.  Hết.
Dứt chử “hết” tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Đại đội  112 bị pháo kích đã tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm lên thêm  hướng Tây Nam để bắn che cho Đại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích,  75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo vì chúng tôi  phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh  pháo binh bắn cấm chỉ (tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch  hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn gì, chắc tụi nó  khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa pháo kích thì chúng kéo súng ra bắn  theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở  Bò (pháo binh) nào của ta rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực  xạ.
Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích  thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly,  và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi  tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh  pháo? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Dù ở Căn cứ Võ  Định cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà  nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá. Nhưng Trung Tướng  Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết  mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực…tử thủ, chắc là định dùng 11  Dù nhử cho địch lên tapi như Đại Đội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Đồi C1 dứt gần hết  cả Tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, vì trận này mà cộng sản đã lên án  tử hình Đại úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại  đội này. Quân đoàn II còn lệnh cho 11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ130  ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị  loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di  tản. Cái hào quang chiến  thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả  thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng  bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây.  Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương vì pháo còn chưa di tản được  nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được  cách C2 500 mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass  B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng  Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không dập. Mổi lần bị  pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị  pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy  nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút,  chắn chết hết vì pháo.
Sáng sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau  màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực  diện Đại đội 114. Địch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các  loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào  các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đã lộ rỏ ý  định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí  pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ không  đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiếp cận  ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may việc giương đông kích tây  này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên  còn rảnh tay yễm trợ được cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ  nhất của cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả  đấm thép đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo,  Đại đội 114 anh dũng bắn trả, Đại đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính Dù  thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ các chiến hào đan  một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều  chuyển qua hết tần số của tôi, sẳn sàng gom bi.
-415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công,  trường ca L1, L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả.  Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đã lên nòng  khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng  depart, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước  mắt.
- Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả.  Hết.
Đạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc  ngoài phòng tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng  nhỏm dậy bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh bắn che cho  tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu thân dàn  hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ đã lên vùng sẳn sàng thả bom, Trung  úy Cho nói với tôi:
-Nếu tụi nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến  của mình. Tôi trả lời :
-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô  luôn che phía sau lưng, lở có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi  mới dám bắn. Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục  mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả và không  biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không vì đạn pháo của cả hai  bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nhìn ra ngoài, xác  địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc  này đã rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái gì đó. Bộ chỉ huy Tiểu  đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc  phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng  rào, chỉ cách vị trí cở 50 mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần  đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và  bắn pháo binh cách mình hai ba chục mét (hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly  là từ 50 đến 100m, bắn cách mình cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức  nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng  dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ  như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi  có cần gì thì tất cả đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà mình còn gáy  (tức pháo  binh còn bắn), thì không có tên răng đen mã tấu nào nào có thể bước qua 114  được. Sở dĩ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của  anh em 114 Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không thì bể tuyến lâu  rồi. Còn Trung úy Đúng thì rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành hết  thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm  yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó thì hàng  loạt tiếng depart từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả  các loại pháo chứ không riêng gì 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng  5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống  như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả  các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo  cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng  không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị  trí pháo của mình thì bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương  như thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn biển  người lên lấy thịt đè người, Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn  chử đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn,  rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em quân đội hết thế hệ này đến thế hệ khác  cố gắng làm cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của mình. Trong tiếng pháo nổ  vang trời, tôi nhấc máy gọi 310:
-310 có nghi tụi đề lô nó áp sát mình không, nghi tụi  nó ở đâu thì con gà nào của mình “quởn” cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho  biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự  im lặng rợn người vì tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung  phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đã quen thuộc kiểu  này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất  nặng nếu không thì đã là nhào lên tiếp để…lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa  dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm chỉ, tôi nhìn ta phía  Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang  điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội vã sửa  lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm  làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi  chong mắt nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn từ lúc  nào (hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo  súng).
- Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có gì nhớ  kiếm tao. Hai đệ tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không  nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói gì.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân  đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không  khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh  gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy  dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng  hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu  gì muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến  những người lính 11 Dù thành những chiến sỉ  “L’enfer Des Hommes” tức là những  người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Saigon hay  sao, nếu là những đơn vị khác thì đã rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những  người lính mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Micae  (Tổng Lãnh Thiên  Thần Micae là Thánh bổn mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Hòa).
Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau  loạt pháo là mon men đánh thăm dò tiếp Đại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114  bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến,  sau mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Đại đội 114  cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo kích, căn cứ  càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nửa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc  súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mãnh đạn pháo chém  ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có cãm tưởng một con kiến cũng  không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên  các ngọn cây, địch đã điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc.  Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Đại đội 114 giờ biến đâu  mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng  không còn vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ,  những ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn một mét  rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài phòng tuyến anh em Dù  vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương thì vẫn nằm chung với anh em  dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một  trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lý đè lên tinh  thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám  cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam thì còn coi cái chết vào  đâu…Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về  Saigon chịu chơi tới đâu thì chịu, chứ ra trận thì có lệnh là phải tiến, không  có lệnh lui thì…mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên  không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn  2 Dù ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn  11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh  Đại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Địch lại pháo  kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung  dưới lòng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với  tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó thì chết vì nó pháo là  công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra  tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nhìn  tôi dò hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng  chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay  lúc đó thì có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng  đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một  tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng  Đông, Tây, và Nam đều bị địch bao vây, vậy còn hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi  Charlie của Đại đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó  dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc  đứng nửa…Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC 25  gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt loạt đạn lại  thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét núi nằm sâu trong đó  rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề lô, tôi chỉ còn biết xin  415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu  địch sẻ đánh Charlie vì Đại đội 111 nằm riêng rẻ, còn thằng 113 thì nằm kế bên  pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không còn xuống dưới chân 111 lấy nước  được. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung  gần nửa tháng cũng không chơi được Đại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng tìm  hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dử  dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111.  Đại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng  võ trang vào vùng trút xuống hằng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung  phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này thì địch đã công khai di chuyển quân xa ban  ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt  pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung  đoàn này thì còn những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn  hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu hai Sư đoàn  của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của11  Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn chúng đã đặt hai cây phòng không, một cây 12  ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đã công khai để lộ vị trí để bắn máy bay  và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm trợ cho Charlie thì phải bay từ hướng Bắc  hoặc hướng Nam rồi đánh một vòng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúc mủi về  hướng Đông ra thẳng quốc lộ 14, địch đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu  khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống  Charlie trực xạ. Mổi lần máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các hướng nổ  đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây phòng không giờ đây đã dàn trận. Pháo binh  của ta thì gần như bị tê liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng  thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa  đến Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng  tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả  ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn hai cây phòng không này hoài mà cũng chẳng  ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt  điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy  chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không, còn trực thăng võ trang của ta hay  Cobra của Mỹ là miếng mồi dể lãnh đạn phòng không nhất nên khó có thể vào  vùng.
Đến giờ phút này thì đả rỏ thế nào bọn chúng cũng dứt  điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Đại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt dợt pháo,  bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yễm trợ được, định  mệnh đã dành sẳn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về  nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Độ nửa tiếng sau, Trung Úy Thinh Đại đội trưởng  111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại :
-Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta,  chúng chụp được ba lô của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có  lẻ tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ  hộp ra ăn tại chổ (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề phòng  bị bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung Úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi hỏi thì  Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu.  Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ còn có cái này. Tôi ôm bụng  cười ngặt nghẻo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở  nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực  này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính  mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng còn bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là  một loại thuốc kích thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc  sống chết ra sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp  hùng tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì mới biết cấp chỉ  huy của chúng dã man như thế nào.
Sáng ngày 11/4/1972, Đại đội 112 được điều xuống chiếm  lại Charlie đem theo cả Đại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank  hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không,  nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin  thả bom napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo xuống  phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của  không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm  phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng  Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại. Bất kể  phòng không, một chiếc phi cơ nóng lòng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả một  quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên thì cánh bên phải vướng vào ngọn cây trên  ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây phòng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi  nổ tung, viên đại úy phi công Việt Nam đã oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay  vòng vòng tìm đồng đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie,  giận dử trút xuống những trái bom lửa còn lại. Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu  luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt  sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất  bị cầy lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ,  ước lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày  tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này thì làm sao chịu  nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi,  tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho mình, không biết nhà tôi và  đứa con đầu lòng đang mang trong người giờ này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà  tôi đều dặn cầu nguyện Đức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này…Chợt thấy Trung  úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Đúng  hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gẩy cánh thiên thần sau  loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh còn Thiếu  Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt  ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của  ta. Một bịch gạo xấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước  uống thì đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay ngoài  miệng hầm. Pháo dữ quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát.  Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho  Trung úy Đúng và Trung úy Đúng cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch  ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay  chân tôi dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Đại đội 113 được lệnh đi lên phía  Bắc tìm bải đáp, còn Đại đội 111 lên ngọn đồi phía Đông xem có chổ nào tải  thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẽ nghiêm trọng,  không còn cái giọng Nha Trang đơ đớ Quãng Ngãi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt  hàng ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và  chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng  gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây phòng không cách đó không  xa và nói:
- Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua  gì, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng  phòng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh và cũng  không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.
Độ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên  kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn cả phòng không  trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không  biết nó ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung  Úy Thinh, Đại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe  tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã nằm xuống…Cánh dù lộng gió  muôn phương – Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Đại đội 111 thêm lần nửa tan  hàng. Một số còn lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giử mức độ  pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết  và bị thương. Đêm dần xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm  qua, Chuẩn Úy Sơn đề lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay,  Lạc bị thương nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài  chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì cái lệnh tử  thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui  vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội, địch xung phong  lên từ phía Đại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi  mà không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn cản,  địch nhào lên đông như kiến cỏ, Đại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn  hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đã lên vùng bỏ bom ngay trên  tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi  như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Đại Úy Đoàn  Phương Hải Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu đoàn phó, Trung Úy Đúng đứng kế bên, cạnh  đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống  chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng  giử vững vị trí, tôi nghỉ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá,  phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng  nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn bị pháo kích. Lúc này mặc dù  chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng  tuyến thứ hai của ta vẫn giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên  chiến hào ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy  mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm nhiều mãnh đạn pháo sau đó,  có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:
- Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn  gặp Trung Úy.
Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang  nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy  bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ thì thào bên tai:
- Em khát nước quá, Trung úy đái cho em  uống.
Giửa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được  giọt lệ, đệ tử tôi đến giờ phút hấp hối còn nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào  nói với Nhỏ:
- Em còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh  còn phải coi xem còn bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước còn lại một chút cho Hạnh  để cho Nhỏ uống rồi gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có  nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rỏ phía  triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Đây là quả lựu đạn  đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát hiệu quả  lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này địch đã lên được  hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11  chuẩn bị một màn cận chiến, bổng một viên đạn AK bắn trúng bình khói cay E8 của  ta đặt trước mặt Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến cho  khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính la lên địch  pháo khói cay rồi rút về phía Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ  Charlie vào lúc này, nếu không bị bình khói cay thì không biết thế nào, đây có  lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.
Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “đồng ư quy tận”  tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám duổi  theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Trời  hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nửa sợ lộ vị trí, vã lại chúng đã lên đầy  trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt  động lại được bắn chận không cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài  trăm mét thì nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát  thành bình địa. Đại đội 113 ở hướng Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ ngày đầu đến  giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại vì pháo kích, nên được lệnh đi ngược  xuống Yankee tìm đường ra PZ (tức bải bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản  đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên  vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M 79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau  chận hậu,đạn nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh.  Binh sĩ còn khỏe dìu những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được  có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi không  thể dìu được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của người lính chiến thì  không có gì có thể diễn tả ra hết được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men,  và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam,  hơn một trăm con người còn lại này chia đều mổi người đã lãnh cở gần 100 trái  đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt nhớ đã đọc đâu  đó một câu nói của danh tướng Mỹ, Mac Authur ” Tôi thương những người lính bộ  binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại còn phải  gánh chịu những bất công của thượng cấp”. Nghỉ lại hoàn cảnh của 11 Dù còn tệ  hại hơn thế nửa, bị trói tay để đánh.
Đến gần sáng thì ra đến bải bốc giống như một cái thung  lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy, Tiểu đoàn 11 kiểm  tra lại quân số và chia khu vực phòng thủ đợi trực thăng bốc về Võ Định. Tôi và  đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Đại đội 114. Thông thường  khi đi hành quân trực thăng vận, đề lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút  thì đi sau hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.
Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời  đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông thì có tiếng trực thăng bay  đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B của Mỹ,  hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một vòng quanh bải bốc quan sát, một trái  khói màu vàng được thả ra đánh dấu chổ trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất  vừa xà xà xuống mặt đất thì có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay chóc bải đáp rồi  hằng chục tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội  vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai bên  triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y hệt trong phim cao  bồi viễn tây, vì đồi lau sậy thưa thớt nên rất dể thấy chúng không thổi kèn xung  phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa hô “hàng sống chống chết” vang trời. Tiểu đoàn  11 Dù đang bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được  lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi  Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẻ bốc quân tại đây nên cho lệnh Trung  đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở  giửa tất nhiên ta sẻ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đã phục kích sẳn sẻ  hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, thì Nhảy Dù cũng bung ra chống  lại mãnh liệt. Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng  qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chổ nào cũng có tiếng AK47 và M16  nổ lẫn lộn còn hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc  với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như  xinê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng  liều chết đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau  vừa xà xuống thì Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn  Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm Đại liên 60 ria hết luôn một dây đạn còn lại,  Việt cộng ngả rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra  khỏi nòng thì mấy cây AK đã chỉa vô đầu Vinh, có lẽ vì cãm phục tinh thần anh  dũng của người lính Nhảy Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ  bắt sống. Nhờ lòng quả cãm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy nhất 4  chiếc trực thăng đã bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11, Sĩ quan liên lạc pháo  binh, và cố vấn Duffy, nhưng Đại Úy Đoàn Phương Hải ,Trưởng ban 3 (hiện ở San  Jose) thì bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy  bay, may nhờ Thiếu Tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.
Đạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và slick  trực thăng khác vào vùng bay vòng vòng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục  kích nên không đem theo phòng không cho nên trực thăng của Mỷ mới hoạt động được  nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn vì sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần lần bớt  đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu hàng vẫn còn nghe văng vẳng, tiếng trực thăng vẫn  còn nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi đang ở sát dưới bờ suối với ba bốn người  lính nhìn lên khá rỏ nên bảo họ chạy theo tôi ra bãi may ra trực thăng thấy được  rỏ đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi lên. Những  người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra  bay phía bên trái ngược hướng tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó vòng  lại nghiêng cánh, kinh nghiệm chiến trường đã cứu tôi thoát chết, Cobra mà  nghiêng cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó thấy  Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:
- Dạt ra một bên, trực thắng bắn.
Tôi vừa nhào đại qua một bên thì một tiếng rocket nổ  như trời giáng cách tôi cở vài mét không còn nhớ rỏ phía bên nào, tôi thấy mình  văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng colt 45 cầm trên tay văng đâu  mất, cái địa bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên còn lại, may mắn  tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có sao không. Tôi  đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối thì gặp một tốp Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh  đang chạy theo bên bờ suối về hướng Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế,  chưa kịp hỏi thì tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng kêu đầu hàng,  tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối thì một người chạy  sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp, chạy khoảng 50 mét không  nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại để thở. Tôi nói vội với anh  em:
- Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào  bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, thì phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được  đầu hàng. Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Võ Định cách khoảng 8  cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng,  tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lãnh đủ  (về sau đúng như vậy vì bọn chúng đang điều quân đánh căn cứ Võ Định). Cho nên  tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch, rồi  vòng lại hướng đông nam ra Diên Bình, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói,  vừa mệt, 10 người mà chỉ còn có 3 cây M16, mổi cây chỉ có một băng đạn, không  biết lúc đụng trận nửa thì thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử nhỏ con  nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội học bắn, nhưng không  hiểu khoái tôi cái nổi gì đòi theo tôi đi đề lô cho khổ tấm thân, bây giờ không  biết ra sao. Đi gần nửa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lã người, nửa tháng nay  không đêm nào ngủ được vài tiếng. Bổng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại,  khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được một toán Dù  thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập chung, tới chiều thì gặp thêm  một toán nửa, thêm hai Chuẩn úy và mấy Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người  với 10 cây M16, có vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói  quá, không ai còn miếng gạo sấy nào, chỉ còn một lon thịt ba lát, anh em khui ra  đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay chẳng nuốt  gì được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn Úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai  Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh riêng ra và nói:
- Lính của anh, anh dể chỉ huy hơn, còn tôi thì dẫn  đường ra thôi.
Chuẫn Úy Linh trả lời:
- Trung Úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi dâu chúng  tôi theo lệnh Trung úy.
Tôi trở lại nói với anh em:
- Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông thì bỏ chạy,  nếu địch ít thì đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không  được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Đức Mẹ sẻ che chở chúng ta. Tôi động  viên như thế và mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người còn vũ khí đi đầu,  ba Chuẩn Úy chia ra xen kẻ, còn lại không có vũ khí thì đi sau. Tôi cũng dặn dò  kỷ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẻ gặp những gì trên bản đồ. Nếu có thất lạc  vì đụng trận thì theo hướng đó mà ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi  chỉ muốn làm tròn bổn phận người anh, lỡ tôi có bề gì thì biết đường ra cho sớm,  trể một ngày là có thể chết vì đói.
Tối đó, tôi dặn Chuẩn Úy Linh cắt gác xong chia nhau đi  ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy  thật sớm để leo núi đở mệt hơn. Đến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng  Thượng đã bỏ hoang, không có gì để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái  xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô còn tịch sớm hơn nửa. Một người lính bổng  thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cở  ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng  để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô  vừa đến cuống họng thì nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị  ngứa tàn bạo, và một chốc sau thì đôi môi bị sưng lên, tránh võ dưa gặp vỏ dừa,  may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc  thì lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đã san bằng. Ngọn  đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ thì nghe tiếng trực  thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút  xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bải hay pháo binh bắn ghép bải lở  trúng thì xui tận mạng. Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bải phía bên kia  đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe  tiếng trực thăng đáp xuống. Đúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau  này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp,  đến gần chiều thì dừng quân nghỉ đêm. Đôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm  đen phía ngoài, còn trong cổ thì ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay  vào miệng mà cào cho đã ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ  mạng lãng xẹt như thế này vì ăn bậy thì đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi  kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Đêm đó nhìn lên  bản đồ, tôi còn cách sông PôKô độ 2 cây số nửa, qua sông này được thì chiều tối  đến xã Diên Bình. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người  nào cũng đuối sức hết thì làm sao mà qua đây. Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông  PôKô đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay  lúc đó, một chiến trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi  chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẩy vẩy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không  dám bay lại gần, nó chỉ bay vòng vòng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng  giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghỉ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm  chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào tìm những người còn kẹt  lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Địa Phương  Quân Diên Bình biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế  nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét  thì thấy có một cái ghe nhỏ và một người đã tình nguyện bơi qua bên kia bờ lấy  ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đã an bài, một cái ấp bỏ  hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua  sông, như một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi  ngang qua rẩy dân và cố tình nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghỉa quân ở  đây thì nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc hồ mà  không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp gì đó trên  đường đi. Đây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của  một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính còn ca lên mấy câu vọng  cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nửa, chẳng có gì ăn trên đường qua rẩy vì rẩy  cũng bị bỏ hoang lâu rồi, thì lót lòng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền  Nam quê hương vậy.
Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có còn ngán cái địa  ngục nào nửa đâu, ba cái thằng du kích xã dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi  lấy cái lý của kẻ lỳ cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xã  Diên Bình thì dừng lại. Sợ mò vào ban đêm bị vướng mìn tự động hay lựu đạn gài  nên tôi cho dàn quân lại phòng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn dò hết sức cẩn  thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết vì đạp mìn Địa Phương Quân  thì lảng xẹt. Tôi vừa đi một vòng kiểm soát lại mọi người thì Chuẩn Úy Linh tiến  lại nói có hai thằng mò vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho mình  vào. Tôi nói tào thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Đại Úy Tiểu đoàn trưởng  Địa Phương Quân và trình bày lý do, viên Đại Úy nói hồi chiều tôi đã được biết  trước anh em sẻ về đúng nơi đây đêm nay, nên đã chuẩn bị các thứ để giúp anh em  Nhảy Dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù và nhờ chuyển qua  báo cho Tiểu đoàn 11 biết chúng tôi đã ra đến nơi, xong nói tôi có một số người  bị thương, xin Đại Úy săn sóc dùm, viên Đại Úy cho người dẫn anh em bị thương  lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những vết thương được các seour rửa ráy hết  sức cẫn thận, dòi con nào con nấy to bằng đầu đủa bò ra từ trong tủy xương tay  mà anh em không cãm thấy đau đớn chi cả, có những nổi đau còn lớn hơn trong lòng  mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này vì nói ra chúng tôi sẻ khóc. Giọt  lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chổ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc  gì đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn Úy Linh đến để giao lại  nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Đại Úy hỏi tôi muốn ăn gì, tôi chỉ xin một tô  cháo, và một chổ nằm.
Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu  Diên Bình nhìn về dẫy Trường Sơn âm u phía Tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm  tối như canh giấc nghìn thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay còn tiếp tục  đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu vì hai chử tự do, những người đi không về  đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh hình như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp  trên không rồi tan vở từ từ thành hình một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy mình  nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên  cao, bên tai tôi còn nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn người  trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết…
Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đã để lại  nơi đây người anh cả Nguyễn Đình Bảo cùng ba trăm đồng đội , và Tiểu đoàn về  được tới Võ Định trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một Đại đội. Sau  Hiệp định Paris, Đại Úy Hùng mập, Đại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại  liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đòi  giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho vì nhu cầu  trao trả, anh hiện ở tại Houston. Người đệ tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em  khác thì nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt vì bị  sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngủ sau trận này, không chết, nhưng vết  thương trên đầu khi thở ra hít vào thì da đầu cũng phập phồng theo trông rất  ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hộ. Đại Úy Hùng móm và Chuẩn Úy Trưng đề  lô bị bắt sống nhưng đã trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau thì Đại Úy  Hùng móm đã nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị, chỉ cách ngôi nhà  củ của mình có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu Tá Mễ chạy cho một cái  Nhành Dương Liễu, đợi mãi không thấy, hỏi lại thì được biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp  hết huy chương của Quân Khu 2 sau trận này.
Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh hai  trận lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa, Trận Charlie lãnh cở 10,000  quã đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị  của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất hơn 4  đại đội, nhưng đã tiêu diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn cộng quân của Sư  đoàn 320 quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ xung quân số rồi ra tái  chiếm Quãng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu  đoàn 11 Nhảy Dù và đề lô pháo binh đã bắn cháy 26 xe tăng địch, đánh tan cả một  trung đoàn cộng sản Bắc Việt gần bờ sông Mỹ Chánh, khiến viên Trung đoàn trưởng  này bị cấp trên của chúng xử tử. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay ra tưởng  thưởng chiến công lẫy lừng này của Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù. Có lẽ quân  sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công thần kỳ như thế  trong không đầy 24 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu đoàn 11 đã dùng hỏa  tiển TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Đại đội 1 Trinh Sát Dù  của Thiếu Tá Dũng, Đại đội trưởng, mà tôi đã thoát chết được khi đi đề lô cho  Đại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quãng Trị cuối tháng 6 năm  1972.
No comments:
Post a Comment