Cuộc  nội chiến Nam - Bắc ở Việt Nam đã chấm dứt được mấy mươi năm, biết bao  tài liệu sách báo, hồi ký đã được viết ra, biết bao tư liệu tuyệt mật  của các bên đã được công bố, nhiều cánh cửa đã được mở ra để nhìn rõ bản  chất, nguyên nhân, diễn biến, các góc cạnh của cuộc chiến.
Trong  suốt hơn 20 năm qua, tôi đã được đọc không biết bao nhiêu là sách báo,  tài liệu của Ngũ Giác Đài, của Bộ Quốc phòng Liên Xô, Pháp, Anh, của Đệ  Tam Quốc tế CS, các hồi ký của các tướng tá cả của Quân đội Nhân dân  (QĐND) và của Quân lực VN Cộng Hòa, hồi ký về nhà tù CS, hồi ký về  thuyền nhân, rồi những tài liệu tù mù thật giả lẫn lộn, phóng ra từ ổ  đen tình báo Hoa Nam Trung Quốc. Vậy mà theo tôi vẫn còn nhiều «góc  khuất» của cuộc chiến tranh rất nên làm rõ, để cuộc chiến được tái hiện  đúng như nó từng diễn ra trên mọi khía cạnh.
Có  những sự kiện nhỏ bé ít người nói đến nhưng lại đóng vai trò rất lớn,  có khi có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của cuộc chiến.
Xin  nêu lên một vấn đề làm thí dụ. Tôi tạm gọi vấn đề này là «cuộc chiến  biệt vô tăm tích». Đó là tình trạng quân nhân trong QĐND ở miền Bắc khi  đã lên đường vào Nam chiến đấu là cắt đứt mọi quan hệ với gia đình, bạn  bè thân thuộc trong một thời gian dài, cho đến khi sống sót được trở ra  miền Bắc.
Có  thể nói có hàng mấy triệu lượt quân nhân QĐND vượt tuyến như thế, và  hàng triệu người đều ở trong hoàn cảnh như thế. Họ lên đường, rồi «biệt  vô tăm tích», vì bưu điện Bắc - Nam bị cắt đứt hoàn toàn. Nhưng không hề  có một văn bản nào ghi nhận thành chính sách «biệt vô tăm tích» như  thế.
Có  lẽ rất hiếm quân đội nào trong thời chiến cùng gia đình họ chịu cảnh  chia ly triệt để, kéo dài, chịu một cuộc tra tấn đày đọa tinh thần thâm  hiểm đau xót triền miên như thế.
Trong  thời chiến tôi có dịp hỏi chuyện một số sỹ quan phi công Hoa Kỳ bị bắt,  họ còn mang theo cả thư, ảnh vợ con, bố mẹ nhận được trước đó vài hôm  từ Mỹ gửi sang Thái Lan hay Hạm đội 7. Họ chiến đấu ở xa hàng ngàn dặm  mà mối quan hệ tình cảm được đều đặn. Quân nhân của chế độ Cộng sản miền  Bắc nước ta chiến đấu trên đất nước mình mà cứ như bị tha hương, đến  một tinh cầu nào xa lạ, không một lá thư nào, một hình ảnh nào.
Bao  nhiêu bà mẹ, ông bố, người vợ đêm nằm thương nhớ khôn nguôi người con,  người chồng yêu quý của mình, thế rồi chỉ còn có cách nuốt nước mắt vào  lòng, cầu Trời khấn Phật cho người thân «biệt vô tăm tích» của mình sống  sót trở về.
Các  ông cha bà mẹ, người vợ ấy càng chua xót, đau đớn vì cái tỷ lệ sống sót  trở về ngày càng hiếm hoi, «sinh Bắc tử Nam» đã thành số phận gần như  thiên định, do cuộc chiến ở miền Nam hết sức ác liệt, do bộ phận lãnh  đạo CS sùng bái bạo lực, sắt máu, có dã tâm quyết hy sinh không hạn độ  sinh mạng công dân cả nước mình cho tham vọng nhuộm đỏ toàn thế giới của  Đệ Tam Quốc Tế CS. Chiến tranh để dành độc lập, rồi «chống Mỹ cứu nước»  chỉ là nhãn hiệu bề ngoài che đậy dã tâm trên đây.
Nếu  như đảng CS Việt Nam để cho quân nhân mình được phép liên lạc với gia  đình, tổ chức ngành bưu điện quân sự tỏa rộng vào các chiến trường, theo  tôi nghĩ, bộ mặt cuộc chiến đã khác hẳn. Chỉ riêng cảnh rùng rợn của  chiến trường, số chết và bị thương phía CS miền Bắc quá lớn, do quân đội  miền Nam và lực lượng Hoa Kỳ có hỏa lực quá mạnh (từ trước năm 1964  chiến trường miền Nam, QĐ miền Bắc nói chung chưa đưa chiên xa vào miền  Nam, pháo binh còn thưa thớt, không quân miền Bắc chưa hoạt động được)  nên thường thương vong các trận đánh là 3/1, 5/1, có khi 10/1. Theo một  số báo cáo tuyệt mật tôi được biết khi đi trong các đoàn quân sự cao cấp  do tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Văn Tiến Dũng dẫn đầu, với nhiệm vụ là  bí thư báo chí của Bộ trưởng Quốc phòng, sau các đợt «Tổng tiến công và  tổng nổi dậy» năm 1968, lực lượng QĐND bị tổn thất nặng hơn bao giờ  hết, cơ sở nhân dân bị lộ, nhiều nơi bị mất trắng, có nơi phải đưa bộ  đội chính quy miền Bắc vào làm bộ đội địa phương quận huyện. Nhiều đại  đội, tiểu đoàn, cho đến cả trung đoàn phải giải thể, sáp nhập vào nhau,  có khi đến 2 hay 3 lấn, phải lấy phiên hiệu A, B, C, như Trung đoàn 275  A, 275B, 275C. Ở Khu 5 hồi ấy sỹ quan tử trận nhiều phải đôn gấp tiểu  đội trưởng lên đại đội trưởng, tiểu đoàn phó lên trung đoàn trưởng do  miền Bắc cử vào không kịp.
Nếu  như thư từ thông suốt, các trận đánh thua tơi bời, chết và bị thương  như ngả rạ, người bị thương không được cứu chữa, người chết chôn vội rồi  đơn vị di chuyển, giải thể không còn biết ở đâu, nếu như cả xã hội được  thông tin từ chiến trận, biết rõ những thất bại chồng chất khi ấy thì  hậu phương sẽ không cho phép đảng đem con em mình vào lò thiêu sống như  thế. Ở Hoa Kỳ khi các trận đánh qua màn TV đi vào phòng ngủ người dân,  số tử vong lính Mỹ lên đến 50 ngàn trong 5 năm là toàn xã hội lên tiếng  đòi chấm dứt chiến tranh.
Tôi  từng tham dự nhiều buổi tiễn đưa một số đơn vị vào Nam, khi qua binh  trạm cuối «làng HO» thuộc đất Vĩnh Linh là anh em vĩnh biệt miền Bắc  trong cảnh tượng xé lòng mà vẫn phải làm ra vẻ bình thản. Ai nấy đều  giống nhau, hiểu nhau, cùng nhau đóng kịch. Lúc ấy không còn đường rút  lui. Cứ như qua cầu bắc ngang sông là cầu bị cắt. Đã có một số anh em  mất tinh thần, liều mạng, muốn quay lui, vào tù cũng được, nhưng không  sao lọt. Vì trách nhiệm của các chính ủy đoàn, các chính trị viên, của  các chi bộ là ngăn chặn hiện tượng «B tụt», «B tạt», «B quay», nghĩa là  tìm cách lẩn vào rừng, tụt lại sau, tạt ra các bản người dân tộc, rồi  tìm cách quay về nhà. Rất ít ai thoát được.
Những  anh em ấy bị truy lùng ráo riết, bị giải về hậu phương, bị tù đày không  xét xử, cuối cùng ra tù còn phải chịu cuộc sống bị chính quyền CS  phường xóm giám sát, khinh thị, cả họ hàng không sao ngẩng đầu lên được.
Thời  gian «biệt vô tăm tích» người thân của mỗi gia đình một khác, có khi 2,  3 năm, có khi 5, 6 năm, nhiều khi trên 10 năm, tùy chiến trưòng Trị  Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ, hay chiến trường Lào, Miên. Không ai biết rõ  con em mình ở nơi nào. Rất hiếm khi có những tin tức của bạn bè, đồng  hương bị thương trở ra, được biết là người thân ở Khu 5 hay Nam Bộ, hay  Tây Nguyên, còn sống, vắn tắt, sơ sài thế thôi. Những quân nhân tử trận  được báo tử rất chậm, chậm 1 năm được coi là bình thường, có khi chậm  đến 2, 3 năm, do các đơn vị di chuyển sâu, sổ sách luộm thuộm mất mát,  các đơn vị chia ra, nhập vào, thay phiên hiệu, cán bộ tử thương. Vì lẽ  ấy mà đến nay QĐND miền Bắc có đến 300 ngàn trường hợp quân nhân mất  tích, không biết bị tử trận ngày nào, ở đâu.
Đây  là món nợ xã hội của đảng CS đối với nhân dân cho đến nay vẫn không sao  trả được. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp, con số chính thức của phía  Pháp cho biết số tù binh bị phía Việt Nam bắt giam là 5.782 người, đã  trao trả nhiều đợt là 3.290, số còn lại là 2.492 phía Việt Nam không  giải thích được là sống chết ra sao, vì sao, ở đâu. Đối với tù binh là  người Mỹ cũng vậy, số bị bắt giam là gần 2.000, được trao trả là 591  người, số còn lại là 1.350 hay là 1.469 người, (tùy theo tài liệu của  Ngũ Giác Đài hay của Quốc hội Mỹ), phía Việt Nam vẫn không giải thích  được.
Đây  là thêm chứng minh về lãnh đạo đảng CS cực kỳ vô trách nhiệm đối với  sinh mạng con người trong chiến tranh, mặc dầu đã có những quy định quốc  tế về trách nhiệm các bên đối với tù binh, về cấm tra tấn, về nuôi  dưỡng, chữa bệnh, cho nhận thư từ gia đình, trao trả tù binh đầy đủ sau  chiến tranh. Không thể để «biệt vô tăm tích» hàng ngàn trường hợp như  thế.
Có thể nói chính sách «biệt vô tăm  tích» là quốc sách rất thâm và cực kỳ độc ác, phi nhân có tính toán của  đảng CS trong thời chiến.
Nó  được thực hiện cùng với chính sách cắt đứt triệt để quan hệ Bắc - Nam  trong suốt gần 30 năm chiến tranh, nhằm triệt hạ mọi tình cảm ruột thịt,  gia đình, bạn bè ở 2 miền, đặc biệt là giữa hàng triệu bà con di cư từ  Bắc vào Nam với người thân ngoài Bắc, buộc phải coi nhau là thù địch,  cũng là để bóp ngẹt tinh thần phản chiến âm thầm của bà con ta ở cả 2  miền.
Đây  phải chăng cũng là một tội ác, trời không dung đất không tha, của đảng  CS để làm nên cái gọi là toàn thắng giả tạo và tạm thời cách đây 40 năm?

No comments:
Post a Comment