Đối với người Việt hải ngoại, hay người Việt           yêu chuộng Tự do trong nước, 30 tháng Tư là           ngày tháng đau buồn nhất, kể từ năm 1975 và           có lẽ mãi mãi về sau. Nhưng với tôi, một cựu           công chức tốt nghiệp trường HC Sài gòn, đã           từng phục vụ tại một quận nhỏ bé nhưng sôi           động nhất - nơi đó quân ta đã anh dũng chống           trả với ba sư đoàn VC trong gần nửa tháng-           thì ngày tháng đau buồn đáng ghi nhớ bắt đầu           từ 20 tháng 4, 1975. Đó là đêm chúng tôi           cùng với Sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo và           các quân cán chính tại địa phương đã triệt           thoái khỏi quận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh,           qua mật khu Bình Giã, về Bà Rịa, tỉnh Phước           Tuy.
                           Sau gần sáu giờ hãi hùng di chuyển dưới đạn           pháo của địch, chiếc xe jeep dân sự của quận,           đã đưa Quận phó và các nhân viên hành chánh           về đến Phước tuy an toàn. Sau này chúng tôi           mới biết số quân nhân, sĩ quan đã hy sinh           trong trận di tản này khá nhiều, trong đó có           Tiểu khu phó bị tử trận, Tỉnh trưởng kiêm           Tiểu khu trưởng bị thương nặng và bị địch           bắt sống… Xe chúng tôi dừng lại ở Thủ Đức để           ăn sáng, thì được tin đêm trước có một số du           kích đã lẻn về tuyên truyền, kêu gọi dân           chúng chuẩn bị “đón tiếp quân giải phóng”!           Tôi về đến nhà,  vào buổi xế trưa. Sau đó           tôi đưa các nhân viên ra bến ôtô bus để họ           đón xe về nhà… Chúng tôi lưu luyến chia tay.           Và đã bốn mươi năm qua, tôi chưa bao giờ gặp           lại họ, những nhân viên đã đồng cam cộng khổ           với tôi trong suốt thời gian ở Xuân Lộc,           cũng như trên đường di tản đầy hiểm nguy đêm           ấy …
         * * *
                  Không khí tại Sài Gòn những ngày ấy thật           căng thẳng. Chúng tôi cho đục nền nhà, làm           thang gác xuống nhà bố mẹ vợ tầng dưới để           tránh pháo kích. Người dân hối hả tìm đường           di tản ra nước ngoài… Một buổi tối, bố mẹ vợ           tôi đến thăm, ôm hôn giã từ các cháu nhỏ.           Một ông chủ đóng tàu thân thiết từ lâu, hứa           sẽ cho gia đình bố mẹ vợ cùng đi ! Nhưng hai           hôm sau, ông chủ tàu đã thất hứa, bỏ đi           trước! 
                  Những ngày sau đó, tôi lang thang ra đường,           xem thử có gặp vận may để tìm đường di tản.           Vô vọng, tôi bước vào rạp Ciné Nguyễn Văn           Hảo trên đường Trần Hưng Đạo, xem một phim           Pháp. Như  thông lệ lúc bấy giờ, trước khi           xem phim, chúng tôi đứng lên nghiêm chỉnh           chào quốc kỳ VNCH. Nhìn lá cờ thân yêu đang           phất phới trên màn ảnh lớn trước mắt, bỗng           nhiên tôi nhớ đến lá cờ vàng ba sọc đỏ phất           phới trong ánh lửa pháo kích của địch, trước           khi chúng tôi từ giã chiến trường Xuân Lộc,           từ giã thị trấn an bình mà tôi đã phục vụ           hơn hai năm… Hôm nay, chào  lá quốc kỳ trong           một rạp hát ở Sài gòn, tôi có cảm giác mình           lại phải di tản một lần nữa, trước khi CS           vào đây. Nhưng đi đâu, bằng cách nào ? Hai           giòng lệ ứa ra, lăn dài xuống đôi má hóp,           nhạt nhòa đôi mắt mang kính cận của tôi lúc           ấy! Tôi không xem hết phim, bước ra khỏi rạp           với tâm trạng lo lắng buồn bã!  
                  Chiều ngày 26-4, tôi đang đứng trước nhà của           bố mẹ vợ, nhìn người đi đường... Vợ tôi bế           con gái út mới hai tháng tuổi đứng hóng mát           trước sân. Các đứa con khác đã đi học về,           đang quây quần chơi với mẹ. Bỗng ông Đại úy           Hải quân ở cạnh nhà tôi, đậu xe lại nói với           tôi:
                 - Tàu chúng tôi rời bến đêm nay. Ông và gia           đình có muốn đi với chúng tôi, hãy chuẩn bị           sẵn sàng. Khoảng mươi lăm phút nữa, tôi sẽ           xuống đây chở ông bà đi ngay…
                  Thấy tôi do dự, ông ta nói tiếp:
                  - Bằng mọi cách, mình phải đi thôi! Sĩ quan           như tôi, công chức như ông, chúng nó vào đây           sẽ giết hết! Tôi di cư từ Bắc vào Nam năm           54, đã từng nếm mùi CS rồi ông ạ. Đi thôi,           đừng do dự gì cả!
                  Tôi quay sang vợ đang lo lắng nhìn tôi. Tôi           nhìn ba đứa con tuổi từ ba đến năm tuổi đang           đứng quanh mẹ chúng, cười nói vô tư. Đứa con           gái út mới hai tháng, còn lim dim ngủ trong           vòng tay mẹ. Đi hay ở? Tôi quay sang nói với           vợ:
                  - Các con còn bé quá, làm sao chịu nổi sóng           gió mà đi. Hơn nữa em mới sinh xong, còn yếu           lắm…!
                  Vợ tôi im lặng trao cô bé út cho bà ngoại,           bước lên lầu bỏ quần áo tôi vào chiếc túi           xách du lịch. Rồi nàng đến bên tôi, tháo           chiếc nhẫn vàng đeo vào tay tôi, nói nhỏ:
                  - Anh cứ để mẹ con em ở nhà với bố mẹ. Anh           cứ đi một mình. VC vào đây, anh sẽ bị nguy           như ông Đại úy nói đó!
                  Tôi nhìn nàng, người vợ đã từng lo lắng chờ           đợi tôi gần nửa tháng khi địch quân bao vây           quận Xuân Lộc. Người vợ đã có ý tưởng hy           sinh cuộc sống chính mình và bốn con thơ để           tôi ra đi một mình. Có khác chi người vợ           buông mình trong giòng nước lũ sông Hồng, để           chồng sống còn,  nuôi ba con thơ - trong           truyện Anh Phải Sống của Khái Hưng? Giờ đây           tôi sắp ra đi, chỉ một mình, đành đoạn bỏ           nàng với bốn đứa con nhỏ ở lại sao? Đã ra đi,           làm sao có thể trở lại quê hương khi những           kẻ cai trị đất nước này vẫn luôn căm  thù           chúng tôi. Vợ chồng sẽ mãi mãi chia lìa. Các           con sẽ mãi mãi không gặp lại bố… Thế thì tôi           ra đi làm gì?    
                  Khi ông Đại úy tốt ghé vào nhà, hỏi tôi đã           chuẩn bị xong chưa để ra đi, tôi im lặng lắc           đầu … Ông nhìn tôi, ánh mắt buồn rầu. Đó là           lần cuối cùng chúng tôi nhìn nhau, thông cảm           hoàn cảnh của nhau… Đã hơn hai mươi năm rồi,           tôi không còn gặp lại, cũng như không biết           tin tức gì về người sĩ quan tốt bụng đó nữa!            
                  Sài gòn vào những ngày gần cuối tháng Tư năm           ấy, trở nên hoảng loạn. Tin tức chiến sự bi           quan từng ngày. Tổng thống Thiệu ra lệnh           thiết quân luật trước khi lên TV trần tình           về tình hình đất nước, đổ lỗi cho người Mỹ           không viện trợ đầy đủ cho VNCH để ngăn chặn           làn sóng CS xâm lăng... Ban đêm VC từ bên           kia sông Sàìgòn pháo kích vào thành phố. Ban           ngày người ta đi hôi của tại các nhà giàu đã           di tản…
                  Đến sáng ngày 30 tháng Tư, một người chú của           tôi đã chạy trốn VC từ Miền Trung, vội chạy           đến đến hốt hoảng nói với tôi:
                  - Cháu ơi! VC đã vào đến Hoà Hưng rồi ...           Liệu tìm đường mà chạy đi thôi!
                  - Thưa chú, bằng cách nào? Mà chạy đi đâu           bâu giờ? 
                  Chú cháu nhìn nhau, đau buồn và tuyệt vọng…
                  Đến 10 giờ rưỡi trưa, tiếng nhạc trên đài           phát thanh Sài gòn vụt tắt. Rồi có tiếng ồn           ào xôn xao… Sau đó, tiếng của tướng Dương           Văn Minh, nhân danh Tổng thống và Tổng tư           lệnh quân lực VNCH ra lệnh cho các đơn vị           quân đội đầu hàng…Sau đó là tiếng hát, hòa           với tiếng đàn ghi ta của Trịnh Công Sơn,           vang lên ca khúc phản chiến “Nối Vòng Tay           Lớn”… Tôi ngồi phịch xuống giường, nhìn           trừng trừng vào chiếc Radio vừa phát ra           những lời kêu gọi đầu hàng, buồn rầu vô hạn.           Không ngờ cuộc chiến bảo vệ Tự do của quân           dân cán chính Miền Nam đã kết thúc nhanh           chóng và tủi nhục như vậy! 
                  Trưa hôm ấy, tôi bước ra ngoài để xem quang           cảnh náo động ngoài đường. Người ta đổ xô đi           làm quen với những “chú bộ đội”, với dép râu           nón cối, súng AK kè kè bên hông… Người ta           ngắm nhìn họ như những “người lạ” mà lâu nay           chỉ nghe, chứ chưa thấy tận mắt. Người ta           hỏi những câu ngô nghê chỉ cốt làm quen với           đám “chủ mới của đất nước”, đầy quyền uy với           súng đạn và bạo tàn! Trên đường phố, xe hơi           quân sự chạy qua lại, với những tên “cách           mạng giờ thứ 25” đeo băng đỏ trên cánh tay,           mồm la hét trong những chiếc loa cầm tay,           náo động cả phố phường! Có tin đồn về một           cảnh sát viên của “chế độ cũ” vừa tự tử ở           “ngã tư quốc tế”, không xa nhà chúng tôi;           một sĩ quan tự tử cạnh bức tượng Thủy Quân           Lục Chìến ở cuối đường Lê Lợi, Sài Gòn…
                  Khi trở về nhà, tôi gặp một người láng giềng           trong khu tôi ở. Anh này trước đây thỉnh           thoảng hỏi thăm tôi mỗi khi tôi từ quận về           phép. Anh chỉ chiếc xe jeep của quận Xuân           Lộc đậu trước nhà - chiếc xe tôi đậu nơi đó           từ ngày di tản từ Xuân Lộc về đây:
                  - Xe riêng của anh, hay xe của quận anh làm           việc đó?
                  Tôi trả lời người “bạn tốt” mà tôi quen từ           khi anh ta vào ở cư xá này:
                  - Tôi làm gì có tiền mua xe?…Đó là công xa           của quận, mang số ẩn tế, anh ạ! 
                  Người “bạn tốt” khuyên tôi:
                  - Anh liệu mà giao nộp sớm cho “mấy ông cách           mạng”, kẻo sau này rắc rối lắm đó!
                  Sau này tôi mới biết “người bạn tốt” đã là           tai mắt của “cách mạng”, theo dõi tôi - cũng           như những “đối tượng” khác từ lâu! Vì chẳng           bao lâu, anh ta làm tổ trưởng dân phố trong           khu  chúng tôi ở.
                  Tôi sực nhớ những giấy tờ, khuôn dấu mang từ           quận Xuân Lộc về,  còn để trong túi xách tay           trong nhà. Tôi bước vào lục tìm tất cả những           giấy tờ, hình ảnh chụp ở quận… đưa vợ đem           vào bếp đốt ngay. Riêng tôi, gói ghém khuôn           dấu của quận Xuân Lộc, khuôn dấu khắc tên           của tôi, bỏ vào túi quần, đón xe bus xuống           bờ sông Sài gòn… Tôi ngồi xuống chiếc băng           đá trên bờ sông, đợi lúc không ai chú ý, lấy           bịch nylon gói những khuôn dấu…, đứng dậy           ném thật xa xuống giòng sông. Tôi nhìn dòng           nước cuồn cuộn chảy, nhận chìm những khuôn           dấu đã từng quen thuộc với chúng tôi trong           hơn hai năm làm việc tại văn phòng quận Xuân           Lộc. Tôi bỗng liên tưởng đến một buổi chiều           mùa đông âm u bên bờ sông Vệ cuối năm 1954.           Hôm ấy gia đình chúng tôi đang chờ chiếc đò           bên kia sông sang chở khách. Bên kia sông lá           cờ vàng đang phất phới tung bay trong gió           đông, gợi trí tò mò lẫn ước mơ của cậu thiếu           niên đã sống chín năm trong cuộc đời tăm tối           vùng “kháng chiến” của Việt Minh! Bên ấy là           cuộc sống huy hoàng, là tương lai tươi sáng           mà cậu và gia đình đang mong ước, chờ đợi.           Còn hôm nay, buổi chiều cuối tháng 4 của 21           năm sau, tôi ngồi bên bờ sông Sài Gòn, nhìn           làn nước đục trôi đi mà nghĩ đến thân phận           mình, tương lai và gia đình mình, đến những           kẻ “đồng cảnh ngã ngựa” không biết ngày mai           những “kẻ thắng cuộc” sẽ ra “đòn thù” thế           nào đây?
 * * *
                  Sáng hôm nay, một buổi sáng cuối tháng ba,           nắng ấm chan hoà miền Nam California. Tôi đi           giữa đại lộ Bolsa thênh thang, với nắng ấm           tươi vui, mà nhớ đến những ngày tháng cũ khi           chiến trường VN sôi sục vào thời điểm bốn           mươi năm về trước. Chiến tranh đã tàn từ lâu,           nhưng những ám ảnh về ngày tháng u buồn năm           xưa vẫn theo đuổi tôi suốt một thời gian dài           gần nửa thế kỷ; suốt một quãng đường dài nửa           vòng trái đất. Từ những trại tập trung CS           miền Nam lẫn miền Bắc; từ một đất nước nghèo           đói miếng ăn lẫn dân chủ tự do... tôi đã đến           một xứ sở ấm no hạnh phúc, đầy đủ nhân quyền           và tự do. Xứ sở ấy cách xa cách quê hương cũ           của tôi đến một Thái Bình Dương bao la bát           ngát và tôi đã nhận nơi này làm quê hương           thứ hai, với tất cả sự cảm mến chân thành…
                  Khi tôi đi đậu xe trước một khu chợ đông đảo           khách hàng người Việt, bỗng thấy một người           hát rong đang ôm đàn, hát một ca khúc mà đã           lâu lắm tôi chưa  nghe lại. Đó là một thanh           niên người Việt rất trẻ, đứng bên chiếc xe           hơi, trên mui có đặt chiếc loa thùng, tay           cầm chiếc micro… đang say sưa hát bài “Một           Mai Giã Từ Vũ Khí” của cố nhạc sĩ Trịnh Lâm           Ngân. Tiếng người ca sĩ hát rong đầy cảm xúc,           vang vang trong khu parking trống vắng buổi           sáng tinh sương, giữa lòng phố chính khu           Tiểu Sài Gòn. Tôi im lặng lắng nghe, lòng           rưng rưng nức nở theo tiếng ca trầm bổng sâu           lắng của anh:
Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn
Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi
Ngoài con tim héo em ơi
Xin trả lại đây, bỏ lại đây
Thép gai giăng với lũy hào sâu
Lỗ châu mai với những địa lôi
Ðã bao phen máu anh tuôn, cho còn lại đến mãi bây giờ…
                  Chàng trai trẻ kia, khi cuộc chiến đã tàn,           có lẽ vẫn còn nhỏ quá. Nhưng bố anh, người           chiến sĩ can trường của những ngày cuộc           chiến sôi sục trước năm 1975, đã nằm xuống           khi chiến cuộc chưa tàn! Máu ông đã tuôn ra,           bao ước mơ đơn sơ về “một ngày chinh           chiến tàn” mãi mãi không  thực hiện được.           Hôm nay, những ngày gần đến tháng Tư đau           buồn, tiếng hát anh gợi lại cho tôi vết           thương lòng bốn mươi năm về trước. Hãy hát           lên đi, hát nữa đi hỡi những người trẻ tuổi           VN của thế hệ hôm nay. Để tiếng hát xoá đi           nỗi u buồn, đớn đau của những ngày Sài gòn           sụp đổ. Để tiếng hát xua đi những tăm tối           hiện tại, làm bừng lên chút ánh sáng tươi           đẹp cho một thế giới huy hoàng tương lai.           Nơi đó sẽ không còn độc đoán tham lam, không           còn gông cùm đấu tố, không còn áp bức bạo           tàn. Để con cháu tôi mãi mãi sẽ không còn ám           ảnh nỗi u buồn tháng Tư như tôi hôm nay….           
                           Tam Bách ĐBT 

No comments:
Post a Comment